Bài thơ đề núi Chiếu Bạch chép trong các sách là của Lê Thánh Tông hay của Lê Tương Dực

Discussion in 'Thông Báo Hán Nôm Học' started by admin, Jan 9, 2015.

  1. admin

    admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên

    HỒNG PHI - HƯƠNG NAO
    Thanh Hóa

    Núi Chiếu Bạch thuộc xã Hà Lâm, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, vốn là một thắng cảnh, nơi đó có đền Chiếu Bạch, miếu thờ Mai Hoa công chúa, bến đò, chợ búa…

    Năm 1998 đến khảo sát, tìm hiểu di tích này, chúng tôi thấy dưới chân núi ở khuất trong những cây gai, cỏ dại, có 2 tấm bia đá còn nguyên, dựng gần nhau và một bia đã bị vỡ làm mấy mảnh, nằm trên mặt đất. Ghép mảnh vỡ của tấm bia này lại thấy còn một số chữ và chúng tôi đã chụp được ảnh.

    Hai tấm bia còn nguyên, thì một tấm khắc bài thơ của Thượng Dương động chủ tức vua Lê Hiến Tông (1461-1504) đề năm Tân Dậu, niên hiệu Cảnh Thống thứ 4 (1501), còn tấm bia khắc phần tiểu dẫn và hai bài thơ của Bảo Thiên động chủ, tức vua Lê Tương Dực (1595-1506) đề ngày 7 tháng 2 năm Hồng Thuận thứ 6 (1514).

    Nội dung tấm bia của Lê Tương Dực:

    題照白山詩並序

    紅順六年春仲二月七日曉發自飛来才經照白但見春山照水綠草生春美景清奇詩情快樂乃親臨幸雅興徘徊助勝珠璣之地道心繡丽供粧羅綺之天金像煇煌玉壺遼繞美而最美奇而愈奇因其吟詠之間燕遊之際乃題詩于石云

    浩蕩潮頭水接天

    巍峨老石蘸清川

    依稀古樹容粧上

    熳爛鮮花色綴前

    緩步徜徉詩思雅

    清吟快樂道心玄

    洞中容得春光在

    壯觀雄姿永遠年

    ***

    春光駘馳弄晴天

    孤石山贊山元枕巨川

    瓊國微茫宽望外

    玉壺窈窕入吟前

    山含羅綺詩懷悦

    洞隔塵埃 ……

    世事逍遥無限兴

    泉芳洗耳不知年

    寶天洞主題

    洪順六年二月初七日

    光天殿嘉行大夫秘書監正事臣黄? 奉寫.

    Phiên âm:

    Đề Chiếu Bạch sơn thi tịnh tự

    Hồng Thuận lục niên xuân trọng nhị nguyệt thất nhật hiểu phát tự Phi Lai tài kinh Chiếu Bạch, đãn kiến xuân sơn chiếu thuỷ, lục thảo sinh xuân, mỹ cảnh thanh kỳ, thi tình khoái lạc. Nãi thân lâm hạnh, nhã hứng bồi hồi trợ thắng châu cơ chi địa, đạo tâm tú lệ, cung trang la ỷ chi thiên, kim tượng huy hoàng, ngọc hồ liêu nhiễu, mỹ nhi tối mỹ, kỳ nhi dũ kỳ. Nhân kỳ ngâm vịnh chi gian, yến du chi tế, nãi đề thi vu thạch vân.

    I. Hạo đãng triều đầu thủy tiếp thiên,

    Nguy nga lão thạch trám thanh xuyên.

    Y hy cổ thụ dung trang thượng,

    Mạn lạn tiên hoa sắc xuyết tiền.

    Hoãn bộ thượng dương thi tứ nhã,

    Thanh ngâm khoái lạc đạo tâm huyền.

    Động trung dung đắc xuân quang tại,

    Trang quan hùng tư vĩnh viễn niên.

    II. Xuân quang đài đả lộng tình thiên,

    Cô thạch toàn ngoan chẩm cự xuyên.

    Quỳnh quốc vi mang khoan vọng ngoại,

    Ngọc hồ yểu điệu nhập ngâm tiền.

    Sơn hàm la ỷ thi hoài duyệt,

    Động cách trần ai ????(1)

    Thế sự tiêu dao vô hạn hứng,

    Tuyền phương tẩy nhĩ bất tri niên.

    Bảo Thiên động chủ đề. Hồng Thuận lục niên nhị nguyệt sơ thất nhật. Quang Thiên điện Gia hạnh đại phu Bí thư giám chính sự thần: Hoàng: ? phụng tả”.

    Dịch nghĩa:

    Lời tựa và bài thơ đề ở núi Chiếu Bạch. Ngày 7 tháng 2 trọng xuân, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514), sáng sớm từ Phi Lai ra vừa qua núi Chiếu Bạch, nhìn thấy non xanh soi xuống dòng sông biếc. Cỏ xanh xuân sắc, cảnh đẹp thanh kỳ, hồn thơ vui vẻ, liền bước lên bờ, nhã hứng bồi hồi. Nơi trân châu cảnh thắng, đạo tâm đẹp đẽ, trang sức thêm cho bầu trời như gấm lụa. Tượng vàng rực rỡ. Bầu tiên rộn ràng. Đẹp đẽ càng thêm đẹp, kỳ tú lại thêm kỳ tú. Nhân khi ngâm vịnh, giữa lúc nhàn du, liền đề thơ vào đá:

    Bài I:

    Thủy triều dâng (bồng bềnh) dào dạt nước lẫn bầu trời,

    Núi đá hiên ngang nhúng vào giữa dòng sông xanh.

    Dung trang của những cây cổ thụ lung linh trên sông,

    Thêm vào còn có những hoa tươi điểm xuyết rực rỡ.

    Bâng khuâng nhẹ bước làm cho tứ thơ thêm tao nhã,

    Khoan khoái với giọng ngâm trong trẻo làm cho đạo tâm thêm huyền diệu.

    Trong động chứa đầy ánh mặt trời xuân,

    Mãi ngắm dáng non hùng vĩ muôn đời đẹp đẽ.

    Bài II:

    Ánh sáng của mùa xuân đi chầm chậm như đùa giỡn với bầu trời trong sáng,

    Những hòn đá cô đơn của ngọn núi chon von như gối cả vào dòng sông lớn.

    Cõi thần tiên mênh mang chiếm một vùng thoáng đãng,

    Một bầu ngọc duyên dáng làm cho tiếng thơ thêm thắm tươi.

    Núi non như ngậm cả màu gấm lụa làm cho thi tứ thêm vui vẻ,

    Động xa cách cõi trần ai [ý thơ thêm uyển chuyển].
    https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq
    Tiêu dao ở cõi đời thật hứng thú vô hạn, chẳng cần biết đến năm tháng của việc “Suối thơm rửa tai” [của Hứa Do và Sào Phủ] làm gì cho mệt:

    Bảo Thiên động chủ (Lê Tương Dực) đề ngày 7 tháng 2 năm Hồng Thuận thứ 6 (1514).

    Quan Quang Thiên điện Gia hạnh đại phu, giữ chức chánh tự ở Bí thư giám, bề tôi là Hoàng ?... vâng viết”

    Dịch thơ:

    I

    Dào dạt triều dâng nước lẫn trời,

    Nguy nga đá cũ chặn dòng trôi.

    Lung linh cây cổ dung trang tuyệt,

    Rực rỡ hoa cười điểm xuyết tươi.

    Khoan bước bồi hồi thi tứ nhã,

    Nhẹ ngâm sảng khoái đạo tâm vui.

    Trong hang chứa cả bầu xuân sáng,

    Mải ngắm dáng non đẹp vạn đời!

    II

    Chầm chậm bóng dương giỡn giữa trời,

    Non côi ngất ngưỡng gối dòng trôi.

    Mênh mang Bồng đảo vùng thông thoáng,

    Duyên dáng bầu tiên cõi thắm tươi.

    Non điểm lụa là thi tứ đẹp,

    Động xa trần cuộc ý thơ vui.

    Tiêu dao sự thế vô cùng thú,

    Tai rửa suối thơm chuyện vạn đời.

    Tham khảo sách Lê Thánh Tông thơ văn và cuộc đời do Mai Xuân Hải tuyển chọn và giới thiệu, nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội ấn hành năm 1998, ở trang 210, 211 có chép bài Đề Chiếu Bạch sơn thi tịnh tự (Bài thơ đề núi Chiếu Bạch) của Lê Thánh Tông, nhưng không có bản chữ Hán chỉ có phần phiên âm và dịch nghĩa, dịch thơ của người soạn sách. Đối chiếu phần phiên âm trong sách với văn bia của Lê Tương Dực ở trên, chúng tôi thấy nội dung gần giống hệt nhau, cả lời đề dẫn và 8 câu của bài thơ. Chỉ có điểm khác là trong sách phần đề dẫn ghi: “Hồng Đức nhị niên (Hồng Đức năm thứ 2) (1471) và 3 câu cuối bài thơ có 3 chữ khắc trên bia mà thôi.

    Chúng tôi cho rằng bài thơ đề núi Chiếu Bạch chép trong các sách là của Lê Tương Dực chứ không phải của Lê Thánh Tông, bởi mấy căn cứ sau đây:
    Thứ nhất, bài thơ Lê Tương Dực còn thấy khắc trên bia, có đầy đủ phần lạc khoản như tên hiệu tác giả, thời gian sáng tác, người viết chữ (phụng tả)…

    Thứ hai, khi khảo sát, nghiên cứu bốn văn bia khác của Lê Tương Dực, chúng tôi nhận thấy vị vua thi sĩ này có thói quen bao giờ cũng sáng tác từ hai bài (nhị thủ) trở lên và gieo vần ở chữ cuối câu thơ đầu. Ví như hai bài ở động Bạch Á (thuộc xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa), ba bài ở động Lục Vân (xã Nga Điền, Nga Sơn), hai bài đề chùa Kim Âu (xã Hà Đông, Hà Trung)… Còn Lê Thánh Tông thường chỉ sáng tác một bài.

    Thứ ba, sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vua Lê Thánh Tông về Tây Kinh (Thanh Hóa) vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470)(2), mà thường thường ba năm nhà vua mới về một lần, nên không thể năm Hồng Đức thứ 2 (1471) lại về lần nữa như đã ghi ở phần tiểu dẫn trong sách. Còn theo chính sử thì vào năm Hồng Thuận thứ 6 (1514), mùa xuân tháng 2, Lê Tương Dực có về bái yết Tây Kinh (Thọ Xuân, Thanh Hóa)(3).

    Vậy rõ ràng nội dung bài thơ Đề Chiếu Bạch sơn thi tịnh tự mà các sách ghi tác giả Lê Thánh Tông là không đúng. Có lẽ do một số thơ văn của Lê Thánh Tông về sau mới được sưu tập nên đã có sự nhầm lẫn đó(4). Trong sách Lê Thánh Tông thơ văn và cuộc đời (Sđd, tr.95-96), tác giả Mai Xuân Hải cũng đã cho biết các sách Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích… nhờ có đề rõ Thượng Dương động chủ cùng niên hiệu Cảnh Thống tức vua Lê Hiến Tông, nên tác giả đã đếm được số thơ của Lê Thánh Tông còn lại gồm 10 bài, trong đó có bài Đề Chiếu Bạch sơn(5).

    Nếu chỉ dừng lại đây thì chắc chẳng có gì bàn cãi thêm. Tuy nhiên, do suy đoán tấm bia vỡ là của Lê Thánh Tông, nên chúng tôi đã đọc, phiên âm những chữ mà bức ảnh chụp năm 1998 còn ghi lại được. Điều lạ là trong số 59 chữ còn lại đều trùng khớp với văn bia Lê Tương Dực. Trong đó có 39 chữ ở phần tiểu dẫn: Tịnh tự, xuân trọng nhị nguyệt hiểu phát tự Phi Lai, thi tình khoái lạc nãi thân lâm hạnh, nhã hứng bồi hồi, kim tượng huy hoàng, ngọc hồ liêu nhiễu mỹ nhi, nãi đề thi vu thạch vân” (並序春仲二月曉發自飛來詩情快樂乃親臨幸, 雅興徘徊金像煇煌玉壺遼繞美而乃題詩于石云:)

    17 chữ ở bài thơ thứ nhất “Thủy tiếp thiên. Nguy nga lão thạch. Hoãn bộ Thượng Dương thi. Quán hùng tư vĩnh viễn” (水接天巍峨老石緩步上阳詩观雄姿永遠) và 3 chữ ở bài thơ thứ 2 “Toàn ngoan chẩm” (山贊山元枕). Vì ảnh chụp tấm bia vỡ mất phần lạc khoản, nên năm 2004 chúng tôi đến núi Chiếu Bạch để khảo sát lại. Song đáng tiếc là chỉ mới sáu năm sau mà tấm bia này đã hoàn toàn biến mất, mà theo ông trưởng phòng văn hóa huyện sở tại giải thích là do dân xung quanh lấy về để kê chum vại (!). Điều thắc mắc là tại sao ở một địa điểm núi Chiếu Bạch, lại dựng hai bia giống nhau của Lê Tương Dực. Hay bia Lê Thánh Tông bị mất, nên người đời sau khắc dựng lại, nhưng nội dung văn bia thì căn cứ vào sách vở ghi chép nên nhầm lẫn chăng ? Tấm bia vỡ nay đã mất, nên điều nói trên chỉ là suy đoán. Song có thể khẳng định nội dung bài thơ đề núi Chiếu Bạch lâu nay ghi trong các sách là của Lê Tương Dực, chứ không phải Lê Thánh Tông, cần được cải chính cho chính xác. Sự cải chính này là kịp thời, bởi lẽ ít năm nữa nếu không bảo quản, thì hai tấm bia còn lại cũng sẽ mất và lúc đó sẽ căn cứ vào đâu để biết được sự nhầm lẫn trong sách vở ?.

    Chú thích:
    (1). Mất hẳn 3 chữ vì bia vỡ. Chúng tôi đoán để dịch cho xuôi vần.
    (2). Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Hoàng Văn Lâu dịch, GS. Hà Văn Tấn hiệu đính. Nxb. KHXH, H. 1998, tr.441.
    (3). Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long dịch, GS. Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.72.
    (4). Hồng Đức Quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên phiên âm chú giải, giới thiệu, Nxb. Văn học, 1982, tr.74.
    (5). Sách này chép 10 bài được xem là của Lê Thánh Tông, có bài thứ 2 thấy ghi là “Ngự chế Bảo Thiên động chủ” và tác giả chú thích thêm: “Ở các văn bản bài thơ này có tên là Đề Dục Thúy sơn thi. Nhưng Bảo Thiên động chủ là hiệu của Lê Tương Dực, do đó bài thứ hai này theo chúng tôi cũng không phải là của Lê Thánh Tông.

    (Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81) 2007; Tr. 67-70)
     

Share This Page