Bài Văn Văn Ước Thúc Ở Xã Đông Viên

Discussion in 'Thông Báo Hán Nôm Học' started by admin, Sep 27, 2013.

  1. admin

    admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên

    BÀI VĂN ƯỚC THÚC Ở XÃ ĐÔNG VIÊN
    NGUYỄN THỊ TRANG
    Viện Nghiên cứu Hán Nôm
    Đông Viên là một làng quê văn vật nổi tiếng xứ Đoài, nay thuộc xã Đông Quang huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây. Cũng như các làng lân cận vùng xứ Đoài, Đông Viên thờ đức Tản Viên Sơn Thánh làm Thành hoàng làng. Hàng năm vào dịp mùa xuân dân làng có tổ chức hội làng tế lễ rất long trọng. Không những thế, mỗi năm tứ quý đều tổ chức lễ tại đình làng. Đến năm Tự Đức thứ 26 (1837) các quan viên hương lão còn hội họp ở đình làng bàn định đặt ra nghi thức cúng lễ mới. Lệ quy định hàng năm tiệc lễ thờ thần chính thức tổ chức vào tháng 2. Đến trước ngày hội làng, các quan viên chọn ra người có tài năng đức độ, bầu làm chủ tế. Viên chủ tế mới bầu phải bỏ ra 80 quan tiền để lo liệu việc chung. Tiếp đến lại bầu ra 4 viên cai đội áo đen, mỗi viên phải bỏ ra 60 quan tiền để cùng chủ tế lo việc thờ cúng đức Thánh Tản. Sau khi mãn tịch rồi thì dân làng tổ chức tiệc khao cho từng vị để đền bù công lao khó nhọc cho họ.
    Lễ hội có tổ chức xướng ca, đánh vật, chọi gà và nhiều trò vui dân gian khác. Đặc biệt trong lễ hội còn xướng độc văn thơ ước thúc, bày tỏ tình cảm của dân làng đối với đức thánh. Bài thơ viết bằng chữ Hán, lời thơ rất trang nhã mà lại dễ hiểu:
    Dục tú chung linh nhạc giáng thần,
    Hồng Bàng vãng sự nẫm kỳ văn
    Thần công thánh đức thiên thu miếu.
    Thiên lý nhân tâm vạn cổ dân.
    Giai hạ sênh ca tân cảnh sắc
    Đình tiền trở đậu cựu nghi văn
    Cánh tư thượng ngưỡng lưu thuần hỗ
    Ngô dữ ngô bào tận tại xuân​
    Nghĩa là:
    Chung đúc từ xưa núi giáng thần
    Hồng Bàng chuyện cũ nức xa gần
    Thần công thánh đức ngàn thu miếu
    Thiên lý nhân tâm vạn cổ dân
    Dưới bệ hát ca thiên cảnh sắc
    Trước sân hương khói lại nghi văn
    Đến đây cung kính nhờ ơn thánh
    Ta với dân làng mãi mãi xuân.​
    Còn bài văn ước thúc viết bằng chữ Nôm theo lối biền ngẫu tán dương công đức như trời bể của đức thánh Tản Viên. Thiết nghĩ đây là bài văn Nôm biền ngẫu có giá trị tìm hiểu lịch sử văn hóa xứ Đoài, do vậy chúng tôi xin phiên âm, chú giải, giới thiệu toàn bài văn trong Hội nghị Thông báo Hán Nôm năm 2004 này.
    Toàn văn là:
    Mừng nay:
    Trời xoay bầu ngọc;
    Đất mở cõi tiên.
    Vặc vặc xa thư một mối;
    Hây hây thế giới ba ngàn.
    Bể bặt tăm kình nơi cùng dậu đặt yên Hán nhậm(1)
    Vực nêm trầm nhạn(2) chốn thân ngâm(3) vui gẩy Đường huyền(4).
    Mừng có:
    Danh lừng tây thổ:
    Tiếng dậy Đông Viên(5).
    Lời bác cổ vốn xưa còn tạc:
    Nghĩa tòng đầu(6) tự trước hãy truyền.
    Tả long(7 một đỉnh liên đài, non Tản Lĩnh gấm phô trùng án;
    Hữu hổ(8) đòi chòm tử lý(9), doành Thao giang sánh dãy hồi uyên(10).
    Cảnh lạ độ nay rất giá;
    Khí thiêng nẻo trước ứng điềm.
    Phối thiên vọi vọi anh linh, chữ thượng đẳng rỡ ràng tự điển(11);
    Hộ quốc nhơn nhơn chính khí, dấu tối linh chói chói sử biên.
    Tượng thiên cực Đẩu Ngưu(12) giãi vẻ.
    Bàn địa châm(13) Đinh Quý(14) thôi nền.
    Mái phượng lầu sáng phủ mây lồng, trùng chập cột kình thiên(15) khỏe chống;
    Tòa long kiệu gấm thêu vàng thếp, phất phơ tán bóng nhật dung chen.
    Tường hoa trổ chữ công mực nẩy;
    Thềm bích lan nét triện rêu in.
    Cửa nghênh phong hổ chúc hạc gìn giường bệ ngọc tiêu thiều rắn rỏi;
    Nhà giải vũ voi nghiêm ngựa rập dáng cung nga nghê vũ chờn vờn.
    Ngẫm cảnh ấy gồm pho phong nguyệt;
    Vui thú này khác giá lâm tuyền.
    Sĩ năm xe vào sử ra kinh, trường Tống bảng Đường(16), văn mau đính thanh tiền tuyển vạn;
    Nông trăm mẫu cầy mây cuốc nguyệt, đụn Chu thương Hán(17), ca lần khong(18) nhã tụng tư thiên(19).
    Bề tài khí mỗi chiều mỗi lạ:
    Nẻo lợi danh mọi vẻ mọi nên.
    Chế độ bầy dãy dọc nhà ngang, công mực thước lau(20) nghề tay trái;
    Xốc vác sẵn tiền di bạc tốn, thương bán buôn dào sức(21) lưng trên.
    Tứ dân đủ mọi bề sinh lý;
    Đồng xã gồm đôi chữ bình an.
    Dưỡng nuôi nhờ đức mẹ công cha, trẻ thong thả dặm hòe thổi sáo;
    Mãi chở gội nhân trời ân thánh, già thảnh thơi ngõ hạnh đeo tiền.
    Khai thái công khi lệnh tiết;
    Thưởng xuân vầy tiệc ca diên.
    Tay dang tay quyết cuộc doanh thâu(22) người thích hứng mặc đón xe nhảy ngựa;
    Mặt nhìn mặt khoe chiều thanh quí kẻ hữu tình dầu cợt yến trêu oanh.
    Mặt trời sánh tinh kỳ thấp thoáng;
    Tiếng gió đưa chung cổ(23) huyên ran.
    Nghênh thần viện lễ chúc ly dâng chén chúc ngạt ngào mùi rượu lễ(24);
    Hựu thánh(25) ghi câu giới phúc(26) thả khói nghè nghi ngút triện hương yên.
    To nhỏ chập(27) trúc tơ ánh ỏi:
    Dập dìu tuần thông cúc mời khuyên.
    Nghi ngút dõi đưa cung bắc đòi câu, véo von hoa cười ngọc nói:
    Thổi cuộn một dắng thơ nam mấy khúc, xôn xao phượng múa lân gìn.
    Tiệc ngọc mừng đã phỉ;
    Tiếng vàng lời dặn nên.
    Gìn tuyệt anh đành thói huyên hoa, già cùng trẻ uy nghi chỉnh túc;
    Bỉnh chúc(28) vui khi nhàn hạ, dưới khuyên trên lễ phép chu toàn.
    Trong chủ hội đã thỏa bề kính nhượng;
    Ngoài bàng quan bao xiết tiếng khong khen(29).
    Vậy mới phải y quan hội cả;
    Vậy mới nên văn vật đấng hiền.
    Ắt thấy: Mạch nhân lưu trát:
    Nền phúc vững bền.
    Khắp tiết hòa người thịnh của nên, hớn hớn phúc lành lại xuống;
    Nhờ đại đức trẻ yên già khỏe, thênh thênh cõi thọ cùng lên.
    Tạc bia truyền chữ khang ninh ngũ phúc(30);
    Dắng ba thi(31) câu thọ khảo vạn niên(32).​
    Chú thích:
    (1) Hán nhậm: chăn chiếu nhà Hán. ý nói dân được yên ấm như dân đời nhà Hán thịnh trị.
    (2) Trầm nhạn: chim nhạn nơi đầm vực, ý nói thời loạn lạc.
    (3) Thân ngâm: rên rỉ, oán thán.
    (4) Đường huyền: dây đàn đời Đường, ý nói thời thái bình.
    (5) Đông Viên: vườn phía đông, ý chỉ vùng quê, cũng chỉ luôn làng Đông Viên.
    (6) Tòng đầu: từ đầu, bắt đầu.
    (7) Tả long: tức Tả thanh long, chỉ phía đông.
    (8) Hữu hổ: tức Hữu bạch hổ, chỉ phía tây.
    (9) Tử lý: làng quê, xóm làng.
    (10) Hồi uyên: vực sâu, vòng xoáy.
    (11) Tự điển: điển lễ thờ phụng.
    (12) Đẩu Ngưu: sao Đẩu sao Ngưu, trong chòm nhị thập bát tú.
    (14) Địa châm: la bàn đo phương hướng.
    (14) Đinh Quý: hướng Đinh và hướng Quý, tức hướng Nam - Tây Nam, và Bắc - Đông Bắc.
    (15) Kình thiên: chọc trời.
    (16) Trường Tống bảng Đường: trường học triều Tống, bảng báo đỗ đời Đường, ý chỉ chăm học và đỗ đạt cao.
    (17) Đụn Chu thương Hán: kho nhà Chu kho nhà Hán.
    (18) Khong: khen ngợi.
    (19) Nhã tụng tư thiên: bài thơ ca tụng tao nhã này.
    (20) Lảu: tức lảu thông, ý nói thông thạo nghề nghiệp.
    (21) Dào sức: sức mạnh dồi dào.
    (22) Cuộc doanh thâu: thế cuộc được thua.
    (23) Chung cổ: chiêng trống.
    (24) Rượu lễ: rượu ngon.
    (25) Hựu thánh: thánh thần phò giúp.
    (26) Giới phúc: phúc lớn.
    (27) Chập: điệu nhạc, khúc nhạc.
    (28) Bỉnh chúc: cầm đuốc.
    (29) Khong khen: khen ngợi.
    (30) Ngũ phúc: năm thứ phúc là Phú (giàu có), Quý (sang trọng), Thọ (sống lâu), Khang (khỏe mạnh), Ninh (yên ổn).
    (31) Ba thi: Kinh Thi.
    (32) Thọ khảo vạn niên: sống lâu muôn năm./.
    (Thông báo Hán Nôm học 2004, tr.466-471)

    https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq
     

Share This Page