Có bản sao Toàn Việt thi lục ở Trung Quốc

Discussion in 'Thông Báo Hán Nôm Học' started by admin, Jan 5, 2015.

  1. admin

    admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên

    HÀ MINH
    Giảng viên ĐH SP Hà Nội

    Vào tháng 11 năm 2001, chúng tôi sao chụp từ Microfilm tại một thư viện tư gia ở Bắc Kinh - Trung Quốc bản Toàn Việt thi lục (TVTL) kí hiệu HM.2139 (kí hiệu do chúng tôi tạm phục nguyên). Vì lẽ, TVTL là bộ sách quan trọng trong nghiên cứu và khai thác di sản thơ ca quá khứ của dân tộc, mà tình trạng văn bản của nó hiện còn khá nhiều phức tạp, nên việc có thêm một dị bản để tiến hành khảo luận về tác phẩm là điều hết sức quí giá.

    Thực ra, TVTL - HM.2139 đã được nói đến trong Di sản Hán Nôm Việt Nam-Thư mục đề yếu(1) qua dòng chỉ chỗ sau: Paris. SA.HM.2139:23, 6x16. Trong khi tất cả 11 bản TVTL khác mà các sách thư mục giới thiệu(2) đều là ở trong nước, thì bản TVTL này duy nhất được lưu giữ ở nước ngoài. Chủ nhân bản sao chụp TVTL - HM.2139 cho biết sách này được chụp từ Microfilm tại Paris vào năm 1960 khi tìm hiểu thư tịch chữ Hán tại Pháp. Đây là cơ sở để chúng tôi đoán định HM.2139 được chụp từ SA.HM.2139. Hơn nữa, phần chữ SA của TVTL (SA.HM.2139) là viết tắt của Hiệp hội châu Á - Société Asiatique, còn HM là viết tắt của Henri Maspéro. Căn cứ vào dấu triện của H. Maspéro và dấu Société Asiatique - 1822 có ở nhiều trang của tập sách, chúng tôi có thêm cơ sở để khẳng định bản sao đang bàn đến là chụp từ SA.HM.2139 (hoặc từ Microfilm của SA.HM.2139 theo như người sưu tầm cho biết).

    TVTL bản HM.2139 gồm hai phần. Phần 1: HM.2139-A gồm 15 quyển, từ quyển 1 đến quyển 15; phần 2: HM.2139-B gồm 2 quyển 15 và 16. Bản HM.2139-A có 1078 trang (do chúng tôi đánh số); HM.2139 - B gồm 149 trang.

    Qua khảo sát văn bản HM.2139, xin điểm ra một số thông tin chính sau:

    1. BảnHM.2139 - A

    - Đây là bản chép tay, viết lối chữ chân thống nhất trong cả bộ sách, nét chữ mảnh, chữ viết ít sai sót, nhìn chung là dễ đọc. Mỗi trang có từ 9-10 dòng, mỗi dòng 22 chữ. Trang đầu tập 1 và trang đầu của những quyển sau đó có ghi chú bằng tiếng Pháp và tiếng Hán hiện đại của những người đã từng khảo sát bộ sách, những ghi chú này là thống kê số quyển, số trang… của tập sách.

    - Mở đầu Tập 1 là TVTL Lệ ngôn gồm 7 trang, đại để giống với lệ ngôn ở các bản TVTL khác ở trong nước, chỉ có vài sai khác nhỏ. Tiếp theo Lệ ngônMục lục, gồm 6 trang. Mục lục ghi tên tác giả và số bài thơ được chép của từng người. Số quyển được chép ở Mục lục là từ quyển 1 đến quyển 16, nhưng thực ra chỉ ghi cụ thể đến quyển 15; quyển 16 chỉ có tên quyển (quyển đệ thập lục) mà không thống kê tác giả-tác phẩm. Điều này giống với các bản TVTL có ở trong nước (VD: TVTL - A.1262; TVTL -A.132). Thông tin trên phản ánh rằng: tất cả các bản TVTL hiện có đều sao từ 1 bản TVTL nào đó mà phần mục lục có sự khuyết thiếu.

    Cuối Mục lục ghi dòng chữ: Hàn lâm viện Thừa chỉ Dĩnh Thành bá, thần Lê Quí Đôn phụng biên. Dòng chữ này cùng kiểu chữ với bộ sách (Khác với nhiều bản TVTL trong nước, VD: A.1262 và A.132, cũng có dòng chữ trên nhưng viết bằng kiểu chữ khác, phỏng đoán do người đời sau viết thêm vào).

    - Thống kê (theo Mục lục), số tác giả của bộ sách này từ quyển 1 đến quyển 15 là 173 tác giả, không kể vô danh thị; còn số bài thơ được chép như sau:

    + Quyển 1: từ trang 13 đến trang 35, chép thơ của các đế vương đời Lí, Trần và Nhuận Hồ, bắt đầu chép từ Lí Thái Tông đến Hồ Quí Li, gồm 3 bài cổ thể và 70 bài cận thể, cộng 73 bài.

    + Quyển 2: từ trang 35 đến trang 98, chép thơ của các công khanh đại phụ triều Lí, Trần; bắt đầu chép từ Đoàn Văn Khâm đến Vũ Thế Trung, gồm 10 bài cổ thể và 196 bài cận thể, cộng 206 bài.

    + Quyển 3: từ trang 99 đến trang 151, tiếp tục chép thơ của công khanh đại phu triều Trần, từ Trương Hán Siêu đến Chu Khắc Nhượng, gồm 4 bài cổ thể, 144 bài cận thể, cộng 148 bài. Ngoài ra, cuối quyển 3 có phần Phụ lục chép thơ vô danh thị, gồm 6 bài cận thể.

    + Quyển 4: từ trang 151 đến trang 213, chép thơ của công khanh đại phu triều Hồ và Hậu Trần, từ Hồ Tông Thốc đến Nguyễn Mộng Trang; phần cuối quyển 4 là Phục lục chép thơ của các nhà sư thời Lí Trần từ Vạn Hạnh đến Huyền Quang. Tổng số bài thơ ở quyển 4 là 176 bài, gồm 140 bài cận thể của công khanh đại phu triều Hồ và Hậu Trần, 3 bài cổ thể và 33 bài cận thể của các nhà sư Lí Trần.

    Quyển 5: từ trang 217 đến trang 306, chép thơ của các vua triều Lê từ Thái Tổ đến Thái Tông; có 5 bài cổ thể và 140 bài cận thể, cộng 145 bài.

    + Quyển 6: từ trang 307 đến trang 390, tiếp tục chép thơ của các vua triều Lê, từ Thánh Tông đến Túc Tông. Phần Phụ lục (chữ Phụ lục khác với lối chữ của bộ sách, có thể là do người sau chép thêm) cuối quyển 6 có chép thơ của Lê Chiêu Thống. Cộng quyển 6 gồm 228 bài.

    + Quyển 7: từ trang 391 đến trang 476. Chép thơ các tác giả triều Lê từ Lê Trãi (Nguyễn Trãi) đến Trình Thuấn Du, gồm 10 bài cổ thể, 172 bài cận thể, cộng 182 bài.

    + Quyển 8: từ trang 477 đến trang 556. Chép thơ của các tác giả triều Lê từ Nguyễn Mộng Tuân, gồm 4 bài cổ thể, 177 bài cận thể, cộng 181 bài.

    + Quyển 9: từ trang 557 đến trang 628. Chép thơ của các tác giả triều Lê từ Nguyễn Thần Trung đến Nguyễn Thiên Tích, gồm 7 bài cổ thể, 130 bài cận thể, cộng 137 bài.

    + Quyển 10: từ trang 629 đến trang 653. Chép thơ của các tác giả triều Lê, từ Phan Phu Tiên đến Nguyễn Bá Kí. Quyển này mất một số trang cuối. Theo Mục lục thì quyển này chép được 52 bài thơ.

    + Quyển 11: từ trang 656 đến trang 731. Chép thơ của các tác giả triều Lê, từ Phúc Vương Tranh đến Ngô Luân, gồm 153 bài cận thể.

    + Quyển 12: từ trang 732 đến trang 799. Chép thơ của tác giả triều Lê là Nguyễn Bảo, gồm 5 bài cổ thể, 155 bài cận thể, cộng 160 bài.

    + Quyển 13: mất nhiều trang, hiện còn từ trang 800 đến trang 810. Theo Mục lục, quyển này chép thơ của các tác giả triều Lê, từ Thái Thuận đến Lê Đôn Huyền, gồm 190 bài cận thể.

    + Quyển 14: từ trang 815 đến trang 889. Chép thơ các tác giả triều Lê, từ Hoàng Đức Lương đến Ngô Hoan, gồm 5 bài cổ thể và 158 bài cận thể, cộng 163 bài.

    + Quyển 15: từ trang 890 đến trang 1078. Chép thơ các tác giả triều Lê từ Đặng Minh Khiêm đến Chu Điền. Phần cuối quyển 15 là Phụ lục - vô danh thị. Tổng số bài thơ là 216 bài.

    2. Bản HM.2139-B

    - Căn cứ vào trang bìa, có thể thấy phần này vốn được đóng thành 1 tập riêng tách biệt với HM.2139-A. Có thể thấy trên bìa hiển thị rõ kí hiệu 2139-B (8)4. Phần này nhiều trang có dấu Société Asiatique và H. Maspéro. Đây cũng là bản chép tay, lối chữ chân, nét đậm, chữ to, khác với kiểu chữ của HM.2139-A, viết đẹp, ít sai sót, dễ đọc. Trang 9 dòng, dòng 21-22 chữ.

    - Phần văn bản này gồm 2 quyển: quyển 15 và quyển 16. Như thế, giữa HM.2139-A và HM.2139-B trùng nhau 1 quyển: quyển 15. So sánh qua 2 quyển này, thấy số lượng bài thơ thống kê ở trang cuối quyển 15 là khác nhau: HM.2139-A ghi 216 bài; HM.2139-B ghi là 210 bài. Một điểm khác nữa của 2 bản là trang đầu của 2 quyển 15-16 bản HM.2139-B đều có dòng chữ “Hàn lâm Thừa chỉ Dĩnh Thành bá thần Lê Quý phụng chỉ biên định”. Dòng này thiếu chữ viện trong Hàn lâm viện so với dòng tương ứng ghi ở cuối Mục lục của HM.2139-A; hơn thế tên tác giả không chép đầy đủ là Lê Quý Đôn, trong khi đó vị trí của chữ Đôn ở đây để trống. Đây là một chi tiết đáng chú ý.

    - Quyển 16, là quyển mà HM.2139-A và các bản TVTL hiện nay không có (trừ bản A.132), gồm 66 trang, chép thơ triều “Ngụy Mạc”, từ Phạm Khiêm Bính đến Nguyễn Quản. Trang cuối của quyển này chỉ có 1 dòng, còn trống nhiều giấy nhưng không thống kê số lượng bài thơ như vẫn thấy ở các quyển khác, có lẽ lỗi do người sao chép hoặc do người sao chép chủ ý để đợi chép tiếp. Theo chúng tôi, việc so sánh quyển 16 này với quyển 16 bản A.132 (là quyển mà tất cả các bản TVTL khác hiện không có) chắc chắn sẽ cho nhiều thông tin bổ ích.

    - Phần B của bản sao HM.2139 tuy chỉ có 2 quyển, nhưng rất có ý nghĩa. Xét tổng thể thì đây là một bản TVTL riêng biệt, có lẽ vì để tiện lưu giữ nên thư viện ở Paris đã gộp với bản TVTL 15 quyển nói trên và có ý thức tách làm 2 phần A và B của một kí hiệu tàng bản (phần số) là 2139.

    Trên đây, chúng tôi bước đầu nêu một vài thông tin về một bộ TVTL mới mà ở trong nước chưa (hoặc ít) được biết đến. Theo chúng tôi, đây là một bản sách tốt trong nghiên cứu về di sản trước thuật của Lê Quý Đôn nói chung và nghiên cứu văn bản TVTL nói riêng. Tuy có nhiều vấn đề văn bản học cần làm rõ, nhưng TVTL HM.2139 có nhiều ưu điểm so với nhiều bản TVTL khác về cách thức biên chép, về số quyển - tập… Trước khi nghiên cứu so sánh HM.2139 với các bản khác nếu có được sự đối chiếu, thẩm định bản sao chụp này với văn bản gốc của nó (mà hiện chắc chắn vẫn còn được lưu giữ tại Paris) là một điều lí tưởng.
    https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq
    Chú thích:
    (1) Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu, Trần Nghĩa và François Gros (chủ biên), Nxb. KHXH, H. 1993.
    (2) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập 2, Nxb. KHXH, H. 1990./.

    (Tạp chí Hán Nôm, Số 4 (77) 2006; Tr. 74-77)
     

Share This Page