Làng khoa bảng Nhật Chiêu

Discussion in 'Thông Báo Hán Nôm Học' started by nhandang123, Jun 19, 2015.

  1. nhandang123

    nhandang123 Guest

    LÀNG KHOA BẢNG NHẬT CHIÊU

    Nguyễn Thị Trang
    Nguyên cán bộ Viện Nghiên cứuHán Nôm

    Làng Nhật Chiêu trước đây là xã Nhật Chiêu thuộc tổng Nhật Chiêu huyện Bạch Hạc phủ Vĩnh Tường trấn Sơn Tây. Đến cuối thế kỷ XIX, xã Nhật Chiêu tổng Nhật Chiêu lệ thuộc vào huyện Yên Lạc phủ Vĩnh Tường. Xã gồm có bốn thôn là Ái Vũ, Thượng, Trung và thôn Đông. Đây là làng quê có truyền thống hiếu học được sử sách ghi nhận. Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Tự Đức thứ 35 (1882) Quan Viên tử Kiều Văn Tuấn người thôn Thượng đã dụng công sưu tầm tư liệu, tìm hiểu từ trong các dòng họ trong làng, lại đối chiếu với sử sách để biên soạn thành sách Nhật Chiêu hương hiền tính tự phả. Sách gồm 13 tờ, khổ 16x28cm, chữ viết chân phương dễ đọc, hiện được lưu giữ tại đình làng Nhật Chiêu thuộc xã Đại Tự huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc. Sách gồm 2 phần là Văn phả ghi chép các vị hương hiền xuất thân khoa bảng; vàVũ phả ghi chép các vị hương hiền từng lập võ công. Bài viết này chúng tôi xin giới thiệu toàn bộ phần Văn phả để hiểu biết thêm về làng khoa bảng Nhật Chiêu ở tỉnh Vĩnh Phúc.

    Sách cho biết làng Nhật Chiêu có ba vị thi đỗ đại khoa gồm:

    1. Đào Sùng Nhạc người thôn Cát Vũ (sau đổi là Ái Vũ) thi đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490). Tên tự, tên hiệu và chức quan không rõ. Tìm trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam do Ngô Đức Thọ (chủ biên) được biết ông được bổ làm quan trải thăng đến chức Đô cấp sự trung. Sau ông tham gia phục Lê diệt Mạc bị chết trận.

    2. Văn Vĩ, người thôn Cát Vũ, thi đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), tên tự, tên hiệu và chức quan không rõ. Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam cho biết ông làm quan đến Đô cấp sự trung ở Hình khoa.

    3. Ngô Văn Độ, tự là Tỉnh Quát, người thôn Thượng xã Nhật Chiêu, sinh năm 1818, thi đỗ Cử nhân năm 1848, thi đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Tự Đức thứ 9 (1856), làm quan đến Án sát sứ tỉnh Nghệ An, sau sang làm Lạng Bằng quân thứ Tán lý, hàm Trung nghị đại phu, sau bị ốm mất trong quân ngũ, được truy tặng Quang Lộc tự khanh. Ngô Văn Độ là cháu nội của Hương cống Ngô Quý Thực (thi đỗ khoa Ất Mão đời Lê Cảnh Hưng). Thân phụ của Ngô Văn Thưởng, tuy không đỗ đạt, song do có công nuôi dưỡng con thi đỗ Đại khoa, nên đến đời Tự Đức cũng được truy tặng chức Thị giảng ở Hàn lâm Viện, hàm Phụng nghị đại phu.

    Sách Nhật Chiêu hương hiền tính tự phả chép đời Lê, có 30 vị đỗ Hương cống, 11 vị thi đỗ Sinh đồ. Trong đó có 2 vị Sinh đồ do xuất thân là Quan Viên tử nên được đặc cách cấp cho bằng Nho sinh, đó là sinh đồ Phùng Hữu Danh người thôn Thượng, do có thân phụ là Phó Sở sứ sở Đồn điền Vĩnh Hưng nên được xếp hạng Nho sinh. Người thứ hai là Sinh đồ Phùng Thời Vọng thi đỗ tam trường đời Cảnh Hưng do có thân phụ là Hoằng Tín đại phu Phùng Công Chẩn nên được xếp hạng Nho sinh Phùng Thời Vọng.

    Thời Nguyễn thi Hương đỗ Tứ trường có 5 vị gồm: Ngô Huy Khanh người thôn Thượng thi đỗ Hương cống khoa Quý Dậu (1813) đời Gia Long. Kiều Năng Thân người thôn Thượng, thi đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831) đời Minh Mệnh. Lỗ Đình Tuyển người thôn Trung thi đỗ Cử nhân khoa Đinh Mùi (1847) đời Thiệu Trị. Ngô Toại người thôn Thượng thi đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tí (1852) đời Tự Đức. Ngô Khải người thôn Thượng, thi đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn (1868) đời Tự Đức.

    Thời Nguyễn làng Nhật Chiêu có 12 vị thi Hương đỗ Tam trường gồm: Nguyễn Côn người thôn Trung thi đỗ Sinh đồ khoa Đinh Mão (1807) đời Gia Long. Soạn giả Kiều Văn Tuấn xếp ông là vị khai khoa cho khoa cử làng Nhật Chiêu thời Nguyễn. Sau ông còn hai vị được cấp bằng Sinh đồ là Lỗ Hồng Tiệm người thôn Trung và Kiều Văn Thuật người thôn Thượng cùng thi đỗ khoa Quý Dậu (1813) đời Gia Long. Còn lại 9 vị được lấy đỗ Tú tài, trong đó có 3 vị thi đỗ Tú tài hai khoa là: Tú tài Kiều Đức Uông người thôn Thượng, thi đỗ khoa Tân Sửu (1841) và khoa Ất Tị (1845) đời Thiệu Trị. Tú tài Lê Đình Tú người thôn Trung, thi đỗ khoa Đinh Mão (1847) đời Thiệu Trị và khoa Nhâm Tí (1852) đời Tự Đức. Tú tài Ngô Văn Chất người thôn Thượng, thi đỗ khoa Nhâm Tí (1852) và khoa Ất Mùi (1855) đời Tự Đức.

    Có hai vị thi đỗ Tú tài ba khoa là: Tú tài Kiều Đức Uông người thôn Trung, thi đỗ khoa Quý Mão (1843), khoa Đinh Mùi (1847) thời Thiệu Trị và khoa Mậu Thân (1848) đời Tự Đức. Tú tài Ngô Hữu Kỷ người thôn Thượng, thi đỗ khoa Giáp Tí (1864), khoa Đinh Mão (1867) và khoa Mậu Dần (1878) đời Tự Đức.

    Các vị khoa bảng làng Nhật Chiêu, sau khi thi đỗ có người tiếp tục học thêm để dự thi Hội, trong đó có một số vị được sung vào làm Giám sinh trường Quốc tử giám, như: Giám sinh Phùng Đôn người thôn Đông, thi đỗ Hương cống khoa Quí Mão (1743) đời Cảnh Hưng. Giám sinh Bạch Quang Tường người thôn Trung. Giám sinh Đoàn Lệnh Thúc.

    Ngoài ra, phần lớn các nhà khoa bảng sau khi thi đỗ đã tham gia chính sự, được triều đình bổ dụng làm quan ở trong triều hoặc ở ngoài địa phương.

    Giữ chức Tri huyện có: Cử nhân Ngô Huy Khánh người thôn Thượng, làm Tri huyện huyện Gia Lâm. Cử nhân Ngô Khải người thôn Thượng, làm Tri huyện huyện Chương Đức.

    Giữ chức Tri phủ có: Tú tài Ngô Hữu Đường người thôn Thượng, làm Tri phủ phủ Thông Hóa. Cử nhân Lê Đình Tuyển người thôn Trung, làm Tri phủ phủ Điện Biên. Các vị được bổ dụng làm quan ở cấp tỉnh gồm: Tiến sĩ Ngô Văn Độ người thôn Thượng, làm Án sát sứ Nghệ An, hàm Trung Nghị đại phu. Cử nhân Kiều Năng Thân người thôn Thượng, làm Án sát sứ Tuyên Quang, hàm Trung Thuận đại phu. Tú tài Ngô Văn Định người thôn Thượng, làm Bố Chánh sứ Cao Bằng, hàm Gia Nghị đại phu. Tú tài Kiều Văn Xuyển người thôn Thượng, làm Đốc binh Tuyên Quang quân thứ.

    Các vị khoa bảng làng Nhật Chiêu được bổ dụng là quan trong triều gồm: Giải nguyên Nguyễn Thúc Giao người thôn Trung. Hàn lâm viện Đông các Tả giảng, hàm Triều liệt đại phu, tước Hiển Trung hầu. Hương cống Nguyễn Bá Thiêm người thôn Trung làm Thiêm sự Viện Thiêm sự, hàm Hoằng tín đại phu. Hương cống Lê Nguyên Bá người thôn Thượng, được bổ chức Giảng dụ. Cử nhân Ngô Toại người thôn Thượng, được bổ chức Lang trung ở Bộ Hộ.

    Làng Nhật Chiêu từ xa xưa đã có truyền thống hiếu học, thi đỗ làm quan. Những tấm gương sáng của các nhà khoa bảng ấy đã khích lệ sĩ khí, trở thành một học phong rất đáng trân trọng. Các sĩ tử hăng hái rèn tập, trau dồi bản lĩnh và sẵn sàng ứng thí khi nhà nước mở khoa thi.

    Có nhiều khoa ở làng Nhật Chiêu có hai vị cùng đỗ một khoa như: Khoa thi Hương năm Giáp Ngọ (1774) đời Cảnh Hưng nhà Lê, ở Nhật Chiêu có hai người cùng đỗ Hương cống, đó là Lỗ Cao Tiên người thôn Trung và Kiều Công Đính người thôn Thượng. Khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1777) đời Cảnh Hưng nhà Lê, có Lỗ Nguyên Bá người thôn Thượng và Ngô Hữu Thường người thôn Thượng cùng thi đỗ Hương cống. Khoa thi Hương năm Kỷ Dậu có hai anh em ruột là Nguyễn Trọng Linh và Nguyễn Thúc Dao ở thôn Thượng cùng thi đỗ Hương cống. Người em là Nguyễn Thúc Dao còn được lấy đỗ Giải nguyên. Khoa thi năm Quý Dậu (1813) đời Gia Long nhà Nguyễn có hai người đỗ Hương cống là Ngô Huy Khanh và Kiều Năng Thân cùng ở thôn Thượng.

    Có khoa có ba vị cùng thi đỗ như: Khoa thi năm Đinh Mùi (1847) đời Thiệu Trị nhà Nguyễn có Lỗ Đình Tuyển người thôn Trung thi đỗ Cử nhân, Lỗ Đình Tá người thôn Trung thi đỗ Tú tài, Bạch Văn Lương người thôn Trung thi đỗ Tú tài. Khoa thi năm Nhâm Tí (1852) đời Tự Đức nhà Nguyễn có Ngô Toại người thôn Thượng thi đỗ Cử nhân, Ngô Văn Chất người thôn Thượng thi đỗ Tú tài, Lỗ Đình Tá người thôn Trung thi đỗ Tú tài.

    Truyền thống khoa bảng ở làng Nhật Chiêu được tạo lập bởi có nhiều dòng họ, nhiều gia đình có người đỗ đạt. Có họ Kiều, họ Nguyễn, họ Ngô, họ Phùng là những họ tộc có nhiều người đỗ đạt nhất. Tính chung cả Tiến sĩ, Cử nhân, Tú tài, ở làng Nhật Chiêu tính đến năm Tự Đức 32 (1882) có cả thảy 61 vị thi đỗ, phân chia ra các họ như sau: họ Kiều có 15 vị, họ Nguyễn có 14 vị, họ Ngô có 11 vị, họ Phùng có 6 vị, họ Lỗ có 5 vị, họ Bạch có 3 vị, họ Hoàng có 2 vị, họ Đoàn có 2 vị; Các họ Đào, Văn, Lễ mỗi họ có 1 vị.

    Có nhiều gia đình có hai, ba người cùng đỗ đạt. Có trường hợp hai anh em trai cùng thi đỗ như Cử nhân Ngô Khải, Tú tài Ngô Hữu Kỷ ở thôn Thượng; anh em Tiến sĩ Ngô Văn Độ và Tú tài Ngô Văn Chất ở thôn Thượng. Cùng ở thôn Thượng; còn có 5 anh em trai cùng thi đỗ Hương cống, đó là Hương cống Nguyễn Bá Can, Hương cống Nguyễn Trọng Linh, Giải nguyên Nguyễn Thúc Dao, Hương cống Nguyễn Thúc Phiên, Hương cống Nguyễn Thiếu Thường.

    Cũng có trường hợp hai cha con cùng thi đỗ, như cha con Hương cống Phùng Hữu Vọng, nho sinh Phùng Hữu Danh ở thôn Thượng; cha con Tú tài Lỗ Hồng Tiệm và Cử nhân Lỗ Đình Tuyển ở thôn Trung. Lại có gia đình cả ba cha con cùng thi đỗ như gia đình Hương cống Kiều Thể và hai con là Hương cống Kiều Nguyễn Thung, Hương cống Kiều Phiên ở thôn Thượng.
    https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq
    Ở làng khoa bảng Nhật Chiêu có đến bốn gia tộc có ông cha con cháu cùng thi đỗ như gia đình họ Ngô ở thôn Thượng, Hương cống Ngô Quý Thực đỗ khoa Ất Hợi (1753) đời Cảnh Hưng, sau con ông là Ngô Hữu Đường thi đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ (1834) đời Minh Mệnh, cháu ông là Ngô Khải thi đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn (1868) đời Tự Đức. Hoặc như Sinh đồ Kiều Danh Dương ở thôn Thượng thi đỗ đời Cảnh Hưng, có con là Kiều Danh Thân thi đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831) đời Minh Mệnh, lại có cháu là Kiều Đức Uông thi đỗ Tú tài khoa Canh Tí (1840) đời Minh Mệnh.

    Làng Nhật Chiêu huyện Yên Lạc, với những ghi chép chưa thật đầy đủ của sách Nhật Chiêu hương hiền tính tự phảđã cho thấy trong làng có ba vị đỗ đại khoa (Tiến sĩ), 35 vị đỗ Trung khoa (Hương cống, Cử nhân), và 23 vị đỗ Tiểu khoa (Sinh đồ, Tú tài), cũng có thể được xem là làng khoa bảng. Hiện nay ở nhiều tỉnh thành đang dấy lên phong trào giới thiệu các làng khoa bảng như ở Hà Nội có các làng Nguyệt Áng, Vân Điềm, Tả Thanh Oai; ở Hà Tây có các làng Vân Canh, Chi Nê, Canh Hoạch, ở Hải Dương có các làng Mộ Trạch, Đan Loan, Kiệt Đặc.... Vậy thì ở Vĩnh Yên cũng có các làng khoa bảng tương tự như làng Văn Trưng, Thụ Ích, Nhật Chiêu...

    Tài liệu tham khảo
    1. Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ (chủ biên), Nxb. KHXH, H. 1993.
    2. Quốc triều Hương khoa lục. Bản dịch do Cao Tự Thanh giới thiệu, 1994.
    3. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Nxb. KHXH, H. 1993./.


    (Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (84) 2007; Tr. 31 - 43)

     

Share This Page