Lược thuật những nghiên cứu trong nửa đầu thế kỷ XX về kinh điển Nho gia

Discussion in 'Thông Báo Hán Nôm Học' started by admin, Jan 9, 2015.

  1. admin

    admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên

    TRƯƠNG ĐÀO
    Sở nghiên cứu Cổ tịch, Đại học Sơn Đông.

    Tóm tắt: Xoay quanh các vấn đề về tác giả, niên đại hoàn thành và tính chất của Lục kinh, những nghiên cứu trong nửa đầu thế kỉ XX về kinh điển Nho gia trên đại thể đã trải qua hai giai đoạn trong tiến trình phát triển. Giai đoạn thứ nhất là trước phong trào Tân văn hóa Ngũ Tứ, thể hiện bằng dư ba của cuộc tranh luận về kim cổ văn kinh học; giai đoạn thứ hai từ những năm 1920 đến những năm 1940, biểu hiện bằng chủ nghĩa thực chứng, trào lưu nghi cổ (nghi ngờ thời trước), bằng sự hưng khởi và tạo ảnh hưởng quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các học giả trong nửa đầu thế kỉ XX đã nỗ lực không ngừng tìm tòi nghiên cứu, góp một phần công sức nhất định trong việc tìm hiểu và giải quyết các vấn đề về tác giả, niên đại hoàn thành và tính chất của kinh điển Nho gia.

    Từ then chốt: nửa đầu thế kỉ (20二十世纪上半期), Lục kinh (六经), Khổng Tử (孔子), cuộc tranh luận kim cổ văn kinh học (今古文经学之争), chủ nghĩa thực chứng (实证主义), tư trào nghi cổ (疑古思潮), chủ nghĩa duy vật lịch sử (唯物史观).

    *
    **

    Kinh học là ngành khoa học nghiên cứu về kinh điển Nho gia, là ngành “thông diễn học”(1) 诠释学(thuyên thích học) đối với kinh điển của học phái Nho gia. Ban đầu vốn có sáu cuốn sách được Nho gia tôn làm kinh điển, gọi là Lục kinh 六经, cũng gọi là Lục nghệ 六艺, bao gồm Dịch 易, Thi, Thư, Lễ , Nhạc , Xuân Thu 春秋. Kinh Nhạc nay không còn, bởi vậy gọi là Ngũ kinh 五经. Những nghiên cứu về kinh điển của Nho gia đã làm hình thành những nội dung chủ yếu của kinh học, và giúp cho kinh điển Nho gia chiếm được vị trí là tư tưởng thống trị và địa vị học thuật quan phương trong thời đại phong kiến Trung Quốc từ thời Hán Vũ đế trở đi. Cùng với sự phát triển của chính trị xã hội và diễn biến của các trào lưu văn hóa, việc nghiên cứu trong nửa đầu thế kỉ XX về kinh điển Nho gia cũng đã bước vào một thời kì hoàn toàn mới. Điều đáng ghi nhận là, việc thông diễn và nghiên cứu về kinh điển Nho gia chính là hình thức chủ yếu và phương tiện truyền tải quan trọng cho sự lưu truyền và phát triển của học thuyết Nho gia, nội dung tương đối rộng, cho nên bài viết này, từ góc nhìn văn hiến học, sẽ thảo luận về những nghiên cứu về các vấn đề văn bản như tác giả, niên đại hoàn thành và tính chất của Lục kinh. Về vấn đề Lục kinh, phần lớn các học giả từ thời Hán - Đường trở về trước đều chú trọng việc soạn thuật và biên đính của Khổng Tử, trong đó tiêu biểu nhất là quan điểm trong thiên Khổng Tử thế gia 孔子世家trong sách Sử kí 史记. Tuy nhiên, từ thời trung Đường trở đi lại có không ít học giả tỏ thái độ hoài nghi về mối quan hệ giữa Khổng Tử với Lục kinh. Từ đó, xung quanh vấn đề này, người ta đã khơi dậy những cuộc tranh luận trường kì trên phạm vi rộng lớn, đồng thời kéo dài liên tục đến thế kỉ XX, thậm chí đến ngày nay.

    1. Từ năm 1900 đến phong trào Tân văn hóa Ngũ Tứ, có thể nói là giai đoạn vĩ thanh của cuộc tranh luận về kim cổ văn kinh học truyền thống. Chúng ta biết rằng, việc nghiên cứu kinh điển Nho gia đã bắt đầu từ thời Tiên Tần, và dần hình thành các lưu phái khác nhau, trong đó nổi bật nhất là phong trào Kim văn kinh học và Cổ văn kinh học xuất hiện từ thời Hán. Về vấn đề tác giả và niên đại của các kinh điển, Kim văn kinh học có xu hướng quy hết các tác phẩm trong Lục kinh về cho Khổng Tử, còn phái cổ văn kinh học thì cố gắng chủ trương rằng Lục kinh là cựu điển của tiên vương, Khổng Tử chỉ có công biên đính. Sự mâu thuẫn và tranh luận giữa đôi bên âm ỉ đến cuối đời Thanh thì lại dấy lên. Lấy việc nghiên cứu kinh điển Nho gia làm trung tâm, giữa hai phái Kim văn kinh học và Cổ văn kinh học lại nổi lên làn sóng tranh luận.

    Trong phái Kim văn học, Vương Tiên Khiêm 王先谦 có cuốn Thượng thư Khổng truyện tham chứng尚书孔传参证 (hoàn thành năm 1904) khảo chứng tỉ mỉ, căn cứ trên cơ sở của những nghiên cứu của tiền nhân, đã tiến thêm một bước trên con đường biện ngụy Cổ văn Thượng thư 古文尚书 về mặt ngôn ngữ văn tự và nguồn gốc tư tưởng. Năm 1915, họ Vương lại san khắc bản Thi tam gia tập sớ 诗三家集疏, liệt kê thành điều mục những cái hay cái dở khác nhau trong nghiên cứu Kinh Thi của hai phái cổ kim văn. Nhưng từ năm 1907, Bì Tích Thụy 皮锡瑞 cho in hai cuốn Kinh học lịch sử 经学历史 và Kinh học thông luận 经学通论, cho thấy tác giả đã nắm bắt một cách có hệ thống dòng mạch tổng thể của Kim văn kinh học trong quá trình phát triển kinh học. Trong các cuốn sách trên, họ Bì tiến thêm một bước trong việc chứng minh mối quan hệ mật thiết giữa Khổng Tử với các kinh điển Nho gia, xiển thuật các yếu chỉ của Nho gia. Khi ấy còn có những tác phẩm kim văn kinh học khác như các tác phẩm của Liêu Bình 寥平, Khang Hữu Vi 康有为, họ kiên quyết cho rằng: Khổng Tử viết (作tác) Lục kinh là kết luận không thể lay chuyển.

    Những người kế thừa truyền thống Cổ văn kinh học như Chương Thái Viêm 章太炎, Lưu Sư Bồi 刘师培… có khuynh hướng đưa kinh học vào phạm vi nghiên cứu khoa học thuần túy, nhìn nhận kinh học Nho gia từ góc nhìn khoa học. Lưu Sư Bồi viết cuốn Kinh học giáo khoa thư 经学教科书 (khắc in năm 1906), kiên trì chủ thuyết của Cổ văn kinh học, nhấn mạnh rằng tên gọi “kinh” có từ thời Tam Đại 三代, nhưng khởi nguyên của nó thì rất cổ, ít nhất có thể truy nguyên tới thời Phục Hi 伏羲. Ông cho rằng, Kinh Dịch do quan Thái bốc 太卜nắm giữ, Kinh Thư, Kinh Xuân Thu do quan Thái sử 太史nắm giữ, Kinh Thi do quan Thái sư 太師nắm giữ, Kinh Lễ do quan Tông bá 宗伯nắm giữ, Kinh Nhạc do quan Đại Tư Nhạc 大司乐nắm giữ. “Chu công 周公 là người tập đại thành cho học thuật đời Chu. Lục kinh đều là cựu điển của Chu công, đủ để chứng tỏ trước Khổng Tử đã có Lục kinh rồi. Vậy nên chư tử cuối thời Chu như Quản Tử, Mặc Tử đều đã đọc Lục kinh. Đại khái là Lục kinh đời Chu thì chưa tu sửa, cho nên khác với Lục kinh mà Khổng Tử đã san định” (1: tr.2075). Chương Thái Viêm lại tiếp tục phát huy và phát triển quan điểm “Lục kinh đều là sử (六经皆史)”.

    Quan hệ giữa Khổng Tử với Lục kinh liên tục là vấn đề trung tâm của những cuộc tranh luận kịch liệt trong lịch sử kinh học. Các nhà kim văn kiên trì với thuyết cho rằng Lục kinh là do Khổng Tử soạn, đến cuối đời Thanh vẫn còn chủ trương như vậy. Như Bì Tích Thụy cho rằng: “Trước Khổng Tử chưa thể có Lục kinh” (2: tr.19). Lưu Sư Bồi, Chương Thái Viêm thì tin theo thuyết cổ văn, coi là Khổng Tử đã chỉnh lí Lục kinh, phản đối thuyết của phái kim văn. Lưu Sư Bồi chỉ ra rằng: “Trước thời Khổng Tử từ lâu đã có Lục kinh” (1: tr.2075), “Thời Đông Chu, người nghiên cứu Lục kinh không chỉ có một mình Khổng Tử. Việc Khổng Tử nghiên cứu về Lục kinh đã được sử quan ghi lại. Chu DịchXuân Thu được sử nước Lỗ ghi chép, các thiên trong Kinh Thi được [truyền lại] từ viễn tổ [của Khổng Tử] là Chính Khảo Phủ 正考父, lại hỏi về lễ với Lão Đam老聃, hỏi về nhạc với Trành Hoành苌弘, việc xem một trăm hai mươi bộ sách quốc bảo chép trong sử nhà Chu, cho nên đem Lục kinh mà thuyết với bảy mươi hai vua, trên đường gặp trắc trở, bèn trở về nước Lỗ; soạn Thập dực 十翼để làm sáng tỏ Chu Dịch; sắp xếp lại Thượng thư, định thành trăm thiên; san định thơ thời Ân thời Chu, định thành 311 thiên(2); rồi trở về Lỗ sửa nhạc cho nghiêm chính, dùng đàn ca để ban rộng nhạc, khiến cho nhạc nhã nhạc tụng được thích đáng; lại cân nhắc về lễ thời Tam Đại, theo lễ nhà Chu mà bỏ lễ nhà Hạ nhà Ân; đến khi người ta đi săn ở phía tây bắt được con lân, thì ngài bèn biên định sắp xếp sự kiện trong mười hai đời vua Lỗ, làm thành Xuân Thu. Nhưng Lục kinh khi nhà Chu chưa tu sửa khác với Lục kinh mà cửa Khổng biên định”. “Kinh Dịch là lời giảng nghĩa khi triết lí; Kinh Thi là sách dạy về ca xướng; Kinh Thư là sách dạy về quốc văn; Xuân Thu là sách dạy về lịch sử cận thời của nước Lỗ; Kinh Nhạc là sách dạy ca xướng và cũng là khuôn phép của hành sự” (1: tr.2075-2076). Trong Bác Bì Tích Thụy tam thư 驳皮锡瑞三书(Ba bài phản bác Bì Tích Thụy), Chương Thái Viêm đã tập trung phản bác lí luận của Bì Tích Thụy về việc Khổng Tử làm Xuân Thu. Theo Lưu Sư Bồi và Chương Thái Viêm, Khổng Tử đã đem cựu điển của đời Chu để san định thành sách giáo khoa của mình.

    Tiêu điểm của cuộc tranh luận giữa kim văn và cổ văn kinh học là ở Xuân Thu 春秋và Tả truyện 左传, vì vậy các học giả như Lưu Sư Bồi, Chương Thái Viêm đều hết sức chú trọng đến mặt này, họ trước thuật khá nhiều, và họ đã đưa ra những kiến giải mới và sâu sắc hơn dựa trên cơ sở quan điểm truyền thống của Cổ văn kinh học. Như trong Độc Tả trát kí 读左札记 (Ghi chép khi đọc Tả truyện), Lưu Sư Bồi đã chứng minh khá rõ ràng một sự thực là: Tả truyện đã bắt đầu lưu truyền từ thời Chiến Quốc, mà các học giả thời Tây Hán cũng thừa nhận một cách phổ biến là Tả truyện giải thích Xuân Thu.

    Điều cần chỉ ra là, khác với tranh luận giữa kim cổ văn trước đó, những phê phán của nhóm Lưu Sư Bồi, Chương Thái Viêm đối với Kim văn kinh học không dựa trên cơ sở bảo vệ các quy phạm luân lí đạo đức phong kiến như đại nghĩa quân thần…, mà đã dựa trên bản thân nghiên cứu khoa học. Đương nhiên việc nghiên cứu của họ Lưu và họ Chương về kinh điển cũng không tránh khỏi gắn với những màu sắc thời đại và nhân tố chính trị nhất định. Ví dụ, Lưu Sư Bồi viết Độc Tả trát kí, nhiều phần trong đó có ý nghĩa cách mạng phản đối nhà Mãn Thanh rất rõ ràng, phần bình luận không ít thái độ phản đối chuyên chế phong kiến. Và không ít những luận thuật của Chương Thái Viêm về kinh điển Nho gia cũng phủ định toàn diện thể chế chính trị phong kiến. Sang nửa đầu thế kỉ XX, phương pháp nghiên cứu kinh điển theo trường phái Cổ văn kinh học truyền thống chỉ còn lay lắt, đồng thời cũng có học giả kiên trì trên trận địa học thuật kim văn để tiếp tục làm sáng tỏ nhiều vấn đề.

    2. Sau khi trải qua dư ba của cuộc tranh luận giữa kim cổ văn kinh học, cùng với sự lan truyền ngày càng sâu rộng của Tây học tới phương Đông, trong học giới Trung Quốc đã xuất hiện một làn sóng tư tưởng thực chứng chủ nghĩa, tất nhiên nó cũng ảnh hưởng đến lĩnh vực nghiên cứu kinh học. Có thể lấy Vương Quốc Duy 王国维và Hồ Thích 胡适 làm đại biểu. Vương Quốc Duy tập trung nghiên cứu cổ sử, chú trọng nghiên cứu giáp cốt văn, kim văn, “thạch kinh” 石经 [kinh văn khắc trên đá] thời Hán- Nguỵ, “giản độc” 简牍 [văn hiến trên thẻ tre trúc và mảnh gỗ] thời Hán - Tấn, trong đó rất nhiều nội dung đề cập đến kinh điển Nho gia, giúp ích rất nhiều cho hậu nhân tìm hiểu về những vấn đề như niên đại hoàn thành của kinh điển (Thượng thư chẳng hạn). Quan trọng hơn là, ông đã gạt bỏ thiên kiến bè phái trong kim văn cổ văn truyền thống, chuyển sang dùng lịch sử để nghiên cứu kinh học, xóa bỏ vòng hào quang thần thánh trên đầu kinh điển. Khoảng những năm 1920, Vương Quốc Duy soạn xong bộ Kinh học khái luận 经学概论, lời tổng luận nói: “Trước thời Khổng Tử đã có các sách Dịch, Thư, Thi, Lễ, Nhạc, Xuân Thu, nhưng chưa có tên kinh”. “Trong Lục kinh, thì Thi, Thư, Lễ, Nhạc đều là di văn từ thời cổ đại”. “Các sách này được tôn làm kinh điển bởi nó được chính tay Khổng Tử san định”. “Kinh 经 có nghĩa là thường 常(bất biến), là nói có thể làm khuôn phép vĩnh hằng cho đời sau. Vậy nên chư tử bách gia đọc sách của tiên sư [tức Khổng Tử] cũng gọi là kinh” (3: tr.358-359). Ở đây, Vương Quốc Duy không còn coi kinh sách là thể hiện cái đạo của thánh nhân nữa, mà coi là sử liệu để xử lí. Điều này đã đặt cơ sở vững chắc cho việc khoa học hóa một cách thực sự việc nghiên cứu kinh điển Nho gia.

    Là người đề xuất những giả thiết mạnh dạn và cẩn trọng trong việc tìm chứng cứ, Hồ Thích cũng từng đi theo thực chứng để tiến hành nghiên cứu và khảo sát kinh điển Nho gia. Trong phần thứ 5 [dưới tiêu đề] Khổng Tử trong cuốn Trung Quốc triết học sử đại cương 中国哲学史大纲 (Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, in năm 1919), Hồ Thích đã trình bày về nguồn gốc của Lục kinh, nhấn mạnh rằng Thi, Thư, Lễ, Nhạc đều do Khổng Tử san định chứ không phải do ông trước tác:

    “[Khổng Tử] đem sách trong cung điện thời cổ đại san định thành Thượng thư; đem thơ ca xưa nay san định còn hơn 300 thiên; còn san định sách về lễ về nhạc. Cuối đời, Khổng Tử rất thích Chu dịch, mà Chu dịch khi ấy chẳng qua chỉ có 64 Quái từ và 384 Hào từ. Ông liền đem những điều tâm đắc viết thành 64 Quái tượng truyện卦象传, 384 hào tượng truyện 爻象传, và 64 Thoán từ 彖传. Hậu nhân thu thập những lời lẻ tẻ của ông mà biên soạn thành sách, đó là Hệ từ truyện 系辞传 và Văn ngôn 文言. Trong hai phần này đã có rất nhiều lời bị lẫn tạp với lời hậu nhân, như đoạn bàn về bốn đức trong Văn ngôn. Ngoài ra còn có Tạp quái 杂卦, Tự quái 序卦, Thuyết quái 说卦, càng không đáng tin cậy. Ngoài việc san Thi, Thư, định Lễ, Nhạc, Khổng tử còn viết một bộ Xuân Thu, ông tự nói là mình thuật nhi bất tác 述而不作 (chỉ kể mà không thêm thắt). Vậy nên Thi, Thư, Lễ, Nhạc đều do ông san định, chứ không phải do ông trước tác. Còn các lời truyện cho Chu Dịch thì đều viết dựa trên bản Chu Dịch sẵn có, Xuân Thu cũng được viết dựa theo ghi chép lịch sử của nước Lỗ” (4: tr.58-59).

    Đối với một kinh điển cụ thể nào đó, như Kinh Thi chẳng hạn, Hồ Thích cũng từng có lời bàn luận. Bởi có địa vị quan trọng và ảnh hưởng lớn lao trong lịch sử học thuật, những quan điểm tư tưởng trên của Hồ Thích không chỉ khiến cho người ta có nhận thức rõ ràng hơn về bản lai diện mục của các bộ kinh điển Nho gia, mà còn khơi mào ra một lớp học giả theo “phái biện cổ sử” 古史辨派 (học phái phân tích biện xét lịch sử cổ đại) với đại biểu là Cố Hiệt Cương 顾颉刚, tạo tiền đề cho học phái này đưa ra những kết luận về kinh điển Nho gia khiến người đời phải thán phục.

    Tư tưởng “nghi cổ” 疑古 (nghi ngờ cái cổ xưa) của phái biện cổ sử bắt nguồn từ truyền thống nghi ngờ và biện biệt của học giả Trung Quốc cổ đại, về học thuật thì kế thừa tinh thần phê phán của Trịnh Tiều郑樵, Diêu Tế Hằng 姚际恒, Thôi Thuật 崔述…, lí luận về ngụy kinh tân học của kim văn kinh học thời Vãn Thanh càng trực tiếp khởi phát động cơ lật đổ cổ sử của Cố Hiệt Cương, mà ảnh hưởng về thái độ nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của Hồ Thích lại càng tạo thuận lợi cho lí luận biện cổ sử hình thành một hệ thống hoàn chỉnh. Với tư cách người chỉ huy trong học phái biện cổ sử, Cố Hiệt Cương tập trung khảo cứu các kinh điển, đồng thời nỗ lực tìm kiếm những tài liệu kinh học giúp ích cho việc tái dựng cổ sử. Họ Cố tỏ ra nghi ngờ quan điểm Khổng Tử san thuật Lục kinh:

    Lục kinh vốn là mấy bộ sách thông dụng thời Chu, trong Luận ngữ 论语 không hề thấy nhắc đến việc “san thuật” 删述(cắt bớt và kể lại), đến Mạnh Tử 孟子mới nói Khổng Tử viết Xuân Thu; đến Sử kí mới nói ông bổ sung cho Dịch, đặt lời tựa cho Thư, san Thi; đến Thượng thư vĩ尚书纬 mới nói ông san Thư; đến các nhà kim văn đời Thanh mới nói ông viết Kinh Dịch, viết Nghi lễ 仪礼. Tóm lại, họ cứ thấy sách nào không đủ thì nói là Khổng Tử san 删 (cắt bớt), thấy sách nào đủ nói là do Khổng Tử tác 作 (viết, tạo mới). Thực ra đọc cuốn Hoặc kinh 惑经 (Nghi ngờ kinh điển) của Lưu Tri Kỉ 刘知几 [thì thấy] nếu Xuân Thu đúng là do Khổng Tử viết thì không thể khiến cho “loạn thần tặc tử phải sợ” được. Đọc Vạn Tư Đồng 万斯同 nghi ngờ Cổ văn Thượng thư 古文尚书 và ba trăm thiên Thi [thì thấy] nếu Thi, Thư đúng là do Khổng Tử san, thì hóa ra Khổng Tử là người khuyến khích bạo chúa và đề xướng dâm loạn. Xem sách Dịch giáo 易教 của Chương Học Thành 章学诚 [tức Chương Thái Viêm] [thì thấy] nếu Nghi lễ đúng là do Khổng Tử viết, thì Khổng Tử cũng không thể tránh khỏi việc tiếm đoạt vương ấn. Câu “Lục kinh đều là cựu điển của Chu công” đã bị các nhà kim văn kinh học kéo đổ; quan niệm “Lục kinh đềulà tác phẩm của Khổng Tử” hiện nay cũng đã bị lật nhào” (5: tr.42).

    Họ Cố nhấn mạnh: “Tôi cho rằng Khổng tử chỉ có liên quan đến Kinh Thi, nhưng cũng chỉ là khuyên người ta học Thi, chứ nhất định không phải tự mình san tước Thi. Còn Dịch, Thư, Lễ, Xuân Thu thì có thể nói là không liên quan gì đến ông, dù cho rằng có liên quan thì cũng là về mặt “sử dụng” 用 (dụng), chứ không phải về mặt “viết mới” 作 (tác)” (5: tr.56).

    Cố Hiệt Cương từng chú tâm nghiên cứu Chu Dịch Kinh Thi, “tư tưởng trung tâm là: xóa bỏ địa vị thánh của Phục Hi, Thần Nông và địa vị kinh của Chu Dịch, nhằm khôi phục diện mạo sách bói toán vốn có của nó; xóa bỏ địa vị thánh của Văn vương, Vũ vương, Chu công và địa vị kinhcủa Thi, nhằm khôi phục diện mạo nhạc ca ban đầu của nó” (5: tr.22, quyển đầu). Các công trình Độc Thi tùy bút读诗随笔 (Tùy bút khi đọc Kinh Thi,công bố năm 1923), Thi kinh tại Xuân Thu Chiến Quốc gian đích địa vị 诗经在春秋战国间的地位(Địa vị của Kinh Thi trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, công bố năm 1923), Chu Dịch Quái Hào từ trung đích cố sự 周易卦爻辞中的故事 (Chuyện về Quái từ và Hào từ trong Chu Dịch, công bố năm 1929)… đều được viết trên tinh thần này, về sau các bài viết trên đều được thu thập vào tập III của bộ Cổ sử biện 古史辨. Bên cạnh đó, niên đại của Thượng thư cũng là vấn đề được Cố Hiệt Cương đầu tư khá nhiều tâm lực. Năm 1931, họ Cố viết Nghiêu điển trước tác niên đại khảo 尧典著作年代考 (Khảo về niên đại trước tác thiên Nghiêu điển), từ các phương diện chế độ, địa lí, văn từ, học phong… ông đã chứng minh và cho rằng thiên Nghiêu điển ngày nay bắt đầu có từ thời Chiến Quốc nhưng được người đời Hán viết lại, và nó lưu hành từ sau những năm giữa đời Hán Vũ đế [6].

    Một nhân vật quan trọng khác trong phái nghi cổ, từng có ảnh hưởng sâu sắc đến Cố Hiệt Cương là Tiền Huyền Đồng 钱玄同 cũng tỏ ra hoài nghi địa vị thần thánh của Lục kinh. Năm 1923, trong Đáp Cố Hiệt Cương tiên sinh thư 答顾颉刚先生书(Thư trả lời ông Cố Hiệt Cương), Tiền Huyền Đồng đã thể hiện khuynh hướng học thuật này. Ông chỉ ra rằng, không hề có chuyện Khổng Tử san định hoặc chế tác ra Lục kinh, mà Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu vốn là năm phần không liên quan gì với nhau, vả lại cũng không có sách Nhạc kinh 乐经. Việc tập hợp thành Lục kinh có lẽ là từ cuối thời Chiến Quốc. Về tính chất của Lục kinh, họ Tiền cho rằng: Thi là một bộ tổng tập thơ ca cổ nhất; Thư dường như là những “văn kiện loại biên” 文件类编(cuốn sách sắp xếp các văn kiện theo loại) hoặc “đáng án vựng tồn” 档案汇存 (kho lưu trữ hồ sơ) của thời Tam Đại; Nghi lễ là cuốn ngụy thư (sách giả) được sao chép lẫn lộn trong thời Chiến Quốc; Chu lễ là do Lưu Hâm 刘歆 nguỵ tạo dựa trên các cuốn Lễ kí 礼记 của Tiểu Đới 小戴 và Đại Đới 大戴, trong đó chín phần mười là do Hán Nho viết; Nhạc vốn không có kinh; các quẻ trong Dịch là sản phẩm của thời đại sùng bái sinh thực khí, Thập dực đến đời Hán thì được ghép với Dịch; Xuân Thu thì như Vương An Thạch 王安石và Lương Khải Siêu 梁启超 đã nói, là “bản tấu rách nát” (断烂朝报đoạn lạn triều báo) “sổ sách trôi sông” (流水账簿lưu thủy trướng bạ) (7: tr.235-252).

    Cần nói rằng, quan điểm nghi cổ đã tiến thêm một bước nữa trên con đường lật đổ địa vị thần thánh của kinh điển Nho gia, thoát li triệt để khỏi thiên kiến bè phái của kim cổ văn kinh học, phá vỡ sự bó buộc của tư tưởng truyền thống, khiến cho việc nghiên cứu kinh học hoàn toàn quy về phạm vi nghiên cứu khoa học, về căn bản đã làm lung lay hệ thống cổ sử của Nho gia, tạo tiền đề tất yếu cho vấn đề tìm hiểu niên đại và tác giả của các kinh điển Nho gia. Các học giả phái biện cổ sử đề xuất một loạt quan điểm khoa học, đó thực sự là những gì thu lượm được dựa trên cơ sở tiến hành khảo sát cẩn trọng đối với những tài liệu liên quan, [những quan điểm này] có ý nghĩa gợi dẫn khoa học quan trọng. Đương nhiên, ở một vài kết luận cụ thể, các học giả phái biện cổ sử đã áp dụng quá nhiều phương thức “mặc chứng”(3) 默证, rõ ràng có khuynh hướng nghi cổ quá đà, khiến cho nhiều kinh điển bị liệt vào loại nguỵ tác hoặc ra đời muộn. Trên thực tế, trong công tác nghiên cứu về sau này của các học giả phái biện cổ sử, kể cả bản thân Cố Hiệt Cương, cũng đã ý thức được điểm này và đã có cải chính.

    3. Có thể coi Quách Mạt Nhược 郭沫若là đại biểu điển hình cho các học giả đã kiên trì theo quan điểm duy vật lịch sử để nghiên cứu kinh điển Nho học. Cũng giống như phái biện cổ sử, Quách Mạt Nhược nghiên cứu kinh điển cũng với chủ đích là khôi phục lại diện mạo ban đầu của kinh điển. Nhưng ngoài ra, ông còn đặt trọng tâm vào những vấn đề như bối cảnh xã hội nào đã sản sinh ra kinh điển. Trong cuốn Trung Quốc cổ đại xã hội nghiên cứu 中国古代社会研究(Nghiên cứu xã hội cổ đại Trung Quốc) xuất bản lần đầu năm 1930, ông chỉ ra rằng: Dịch kinh 易经là sản phẩm của giai đoạn chuyển từ chế độ xã hội công xã nguyên thủy sang chiếm hữu nô lệ, Dịch truyện 易传là sản phẩm của giai đoạn chuyển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang phong kiến. Kinh Thi là một bộ sách cổ đáng tin cậy trong văn hiến Trung Quốc, nhưng Thượng thư thì đáng phải nghi ngờ, ngoài bản Cổ văn Thượng thư là ngụy tác; thì trong Kim văn Thượng thư, ba thiên gồm Nghiêu điển 尧典và Cao Dao mô 皋陶谟trong Ngu thư 虞书, Vũ cống 禹贡trong Hạ thư 夏书cũng là nguỵ tác của hậu Nho; mà cả Thương thư 商书và Chu thư 周书có lẽ đều đã trải qua sự nhuận sắc của các quan Thái sử đời Chu và hậu Nho, tính khả tín chỉ có thể dựa vào thời đại sớm hay muộn mà giảm dần (8: tr.90-96). Năm 1935, Quách Mạt Nhược soạn Chu dịch chi chế tác thời đại周易之制作年代 (Thời đại sản sinh ra Chu Dịch, sau này gom vào bộ Thanh đồng thời đại 青铜时代/ Thời đại đồ đồng xanh) trong đó chỉ ra: Dịch kinh được viết bởi người nước Sở đầu thời Chiến Quốc là Hàn Tích Tử Cung 馯臂子弓, còn trong Dịch truyện có một phần lớn được soạn bởi người đất Sở là môn đồ của Tuân Tử 荀子thời Tần, thời đại viết sách là sau năm thứ 34 đời Tần Thủy Hoàng 秦始皇(8: tr.391-404). Khi nghiên cứu kinh điển Nho gia, Quách Mạt Nhược đã kết hợp với cấu trúc xã hội cũng như tập tục sinh hoạt và sản phẩm tinh thần đương thời, kết luận rút ra dù vẫn còn nhiều điều chưa thoả đáng, nhưng đã mở ra một hướng mới trong nghiên cứu kinh học, đưa lại thêm những nội dung mới. Được gợi dẫn từ ông, nhiều học giả sau này khi nghiên cứu kinh học Nho gia đã luôn đòi hỏi phải thảo luận về bối cảnh xã hội đương thời, chú trọng đến tư trào văn hóa đương thời, thể hiện sức sống vô hạn của những giá trị đặc thù của quan điểm duy vật lịch sử trong lĩnh vực nghiên cứu kinh học.

    Phạm Văn Lan 范文澜cũng là một nhân vật đại biểu cho lớp học giả vận dụng quan điểm duy vật lịch sử để nghiên cứu kinh học. Ngay từ năm 1933, ông đã xuất bản cuốn Quần kinh khái luận 群经概论(Khái luận về các kinh điển), trong đó dù còn khuynh hướng cổ văn [kinh học], nhưng về cơ bản đã thoát khỏi thiên kiến bè phái của các phái kim cổ văn, dùng con mắt kết hợp giữa học thuật truyền thống với lí luận khoa học cận đại để xem xét các vấn đề kinh học, từ đó tạo điều kiện tất yếu để sau này ông vận dụng quan điểm duy vật lịch sử dẫn đường cho nghiên cứu kinh học. Từ khi đến Diên An 延安, nhận thức của Phạm Văn Lan về kinh điển lại có một bước thăng hoa mới mà cột mốc chính là công trình Trung Quốc kinh học sử đích diễn biến 中国经学史的演变 (Quá trình phát triển của lịch sử kinh học Trung Quốc) mà ông trình bày trong Hội thảo thường niên về triết học mới tổ chức tại Diên An tháng 9 năm 1940. Trong công trình này ông cho rằng: với tư cách là “sản phẩm của xã hội phong kiến”, “kinh là công cụ trọng yếu để giai cấp thống trị phong kiến áp bức nhân dân về mặt tư tưởng”. “Kinh vốn là sử liệu cổ đại. Thượng thư, Xuân Thu, Tam Lễ (gồm Chu lễ, Nghi lễ, Lễ kí) ghi chép về ngôn 言 (lời nói), hành 行 (việc làm), chế 制 (chế độ), hiển nhiên đều là sử. Kinh Dịch là sách bói toán, Kinh Thi là tập thơ ca, đều chứa đựng khối lượng sử liệu phong phú. Cho nên Chương Học Thành nói “Lục kinh đều là sử”… Nghiên cứu kinh với tư cách là cổ sử thì vấn đề chắc chắn sẽ có lời giải thỏa đáng” (9: tr.265-267). Những điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc khơi gợi để nắm bắt được tính chất căn bản của kinh điển Nho gia.

    4. Trong những năm từ 1920 đến 1940 còn có một số học giả chuyên tâm nghiên cứu kinh điển Nho gia, trong đó họ vừa kế thừa con đường nghiên cứu truyền thống, lại vừa tiếp thu ảnh hưởng từ những tư tưởng mới và quan niệm mới; vừa tán thành quan điểm kinh học của phái biện cổ sử, lại vừa tiếp thu (ở những mức độ khác nhau) phương pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử đòi hỏi kết hợp với bối cảnh lịch sử của xã hội để khảo sát các vấn đề kinh học. Từ đó, các học giả này thể hiện khuynh hướng đa nguyên hóa trong phương pháp nghiên cứu và quan niệm học thuật.

    Năm 1931, Thương vụ ấn thư quán cho xuất bản cuốn Quốc học khái luận 国学概论của Tiền Mục 钱穆, trong đó trình bày phần Khổng Tử dữ Lục kinh 孔子与六经(Khổng Tử và Lục kinh) riêng thành một chương, nhấn mạnh Dịch không liên quan gì đến Khổng Tử, Xuân Thu được Khổng Tử soạn thuật căn cứ vào sử cũ của nước Lỗ, Thư là sách trong cung đương thời, Thi là lời ca vịnh của người xưa, Nghi lễ có nhiều ý trái với ý Khổng tử. Tóm lại, Khổng Tử chưa từng viết (造tạo) ra Lục kinh. Năm 1932, Tiền Mục cho đăng bài Chu quan trước tác niên đại khảo 周官著作年代考(Khảo về niên đại viết Chu quan) trên Yên Kinh học báo 燕京学报 số 11, trong đó ông căn cứ trên các phương diện được ghi chép trong Chu lễ như điển lễ, hình pháp, chế độ ruộng đất, việc phong hầu kiến quốc, chế độ quân sự, ngoại tộc, tang ma, âm nhạc… để tiến hành khảo sát, kết luận rằng Chu lễ chắc chắn được hoàn thành vào cuối thời Chiến Quốc.
    https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq
    Năm 1932, Thương vụ ấn thư quán cho xuất bản cuốn Quần kinh khái luận 群经概论(Khái luận về các kinh điển) của Chu Dư Đồng 周予同, trong đó đối với các vấn đề kinh học, [tác giả] tuy đôi lúc thể hiện khuynh hướng kim văn kinh học, nhưng vẫn tương đối khách quan khi đánh giá quan điểm của các phái Kim văn kinh học, Cổ văn kinh học cũng như các học giả nghi cổ, và cũng đã xuất hiện một số nhân tố của quan điểm duy vật lịch sử. Sau đó, các tác phẩm nghiên cứu lịch sử kinh học Trung Quốc của học giả người Nhật Bản là Honda Shigayuki (本田成之, Bản Điền Thành Chi) cũng được phiên dịch và bắt đầu lưu hành ở Trung Quốc, trong đó bản dịch của Giang Hiệp Am 江侠菴có tên gọi Kinh học sử luận 经学史论(Bàn về lịch sử kinh học, Thương vụ ấn thư quán xuất bản năm 1934), bản dịch của Tôn Lương Công 孙俍工có tên gọi Trung Quốc kinh học sử 中国经学史(Trung Hoa thư cục xuất bản năm 1935). Ngoài ra, năm 1935, Khai Minh thư điếm xuất bản cuốn Thập tam kinh khái luận 十三经概论của Vệ Tụ Hiền 卫聚贤; năm 1936, Trung Hoa thư cục xuất bản cuốn Kinh học thông chí 经学通志của Tiền Cơ Bác 钱基博. Những trước tác trên đều đã khảo sát nguồn gốc của kinh điển Nho gia, trong đó có nhiều điểm khả thủ.

    Năm 1937, Thương vụ ấn thư quán cho xuất bản cuốn Trung Quốc kinh học sử 中国经学史 của Mã Tông Hoắc 马宗霍, trong đó khảo sát về sự nảy sinh và lịch trình phát triển của Lục kinh, nhấn mạnh: “Đại khái là Lục nghệ [tức Lục kinh] thời xưa, trải qua việc sửa chữa của Khổng Tử, đã trở thành Lục nghệ trong cửa Khổng. Trước khi được sửa chữa, Lục nghệ chỉ là “chính điển” 政典 (sách về chính trị); sau khi được sửa chữa, Lục nghệ mới được trở thành “nghĩa lệ” 义例 (tông chỉ và thể lệ). Nếu đầy đủ chính điển thì có thể quan sát phép tắc của một đời vua; nếu làm rõ được nghĩa lệ thì sẽ hình thành cái học của một phái. (…) Trước thời Khổng Tử đã có Lục kinh, khi mới nghiên cứu chúng, ông chỉ muốn ứng dụng vào thế sự, nhưng sau khi ông lưu lạc khắp nơi mà không tìm được bậc quân vương vừa ý, ông liền đem những kinh sách đã nghiên cứu ra sửa đổi để làm sách dạy học” (10: tr.9).

    Năm 1944, Tưởng Bá Tiềm 蒋伯潜viết Thập tam kinh khái luận 十三经概论, căn cứ trên quan điểm của Chương Thái Viêm, ông chỉ ra: “Kinh vốn để gọi chung cho thư tịch, hậu thế tôn sùng kinh nên xếp thành tên riêng để chỉ một loại chuyên biệt” (11: tr.3). Về quan hệ giữa Khổng Tử với các kinh, Tưởng Bá Tiềm nói: “Ngũ kinh gần như đều liên quan đến Khổng Tử. Như Thi chẳng hạn, trong Sử Hán chí 汉志đều có những ghi chép về việc Khổng Tử san định từ cổ thi thành 305 thiên. Thuyết này dù chưa khả tín, nhưng việc ông sửa Nhạc và sửa Thi, Khổng Tử đã tự thuật lại, Luận ngữ cũng ghi chép, đáng là sự thực khả tín. (…) Khổng Tử tự thừa nhận là học giả “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” 述而不作, 信而好古(kể lại mà không thêm thắt, tin cổ và hiếu cổ); việc ông làm đối với Ngũ kinh tựa hồ như công việc thuật 述, tức là chỉnh lí cổ thư; nhưng tư liệu của Ngũ kinh tuy đã có từ trước, sau một lần qua tay Khổng Tử sửa đổi thêm bớt thì hầu như đều được phú thêm hàm nghĩa và sức sống mới, thế thì so với việc gọi bằng “thuật” 述 thì chi bằng gọi là “tác” 作. (…) Cho nên Khổng Tử là thủy tổ của kinh học” (11: tr.5-6). Những quan điểm trên của Mã Tông Hoắc và Tưởng Bá Tiềm là khá công bằng khoa học.

    Thời kì này còn có rất nhiều người chuyên nghiên cứu kinh điển, ví dụ như Lí Kính Trì 李镜池và Cao Hanh 高亨với việc nghiên cứu Chu Dịch chẳng hạn. Trong khoảng những năm 1930-1940, Lí Kính Trì đã soạn Chu Dịch phệ từ khảo 周易筮辞考(Khảo về những lời bói bằng cỏ thi trong Chu Dịch), Chu Dịch phệ từ tục khảo周易筮辞续考(Tiếp tục khảo về những lời bói bằng cỏ thi trong Chu Dịch), về niên đại hoàn thành của Chu Dịch, trước hết trên căn bản ông cũng tán thành với quan điểm của Cố Hiệt Cương là [Chu Dịch ra đời vào khoảng] đầu thời Tây Chu, sau đó lại cho rằng dù Chu Dịch bắt đầu có từ đầu thời Chu nhưng được viết xong vào cuối thời Tây Chu. Về Dịch truyện, họ Lí soạn Dịch truyện thám nguyên 易传探源(Tìm hiểu nguồn gốc Dịch truyện), nhấn mạnh rằng Khổng Tử chưa làm Dịch truyện, mà thời gian hoàn thành cuối cùng là trong những năm Chiêu Nghi sau thời Tư Mã Thiên. Những năm 1940, Cao Hanh xuất bản cuốn Chu Dịch cổ kinh thông thuyết 周易古经通说(Bàn về các vấn đề của cuốn kinh điển cổ Chu Dịch), về tính chất, thời gian hoàn thành, cũng như tác giả của Chu Dịch, căn bản là noi theo quan điểm của phái biện cổ sử, như cho rằng Chu Dịch đại thể hoàn thành vào đầu thời Chu, những sự kiện muộn nhất trong đó xảy ra vào thời Văn vương và Vũ vương. Ngoài ra, trong khoảng từ năm 1932 đến 1937, với tư cách là người chủ trì công việc biên soạn phần sách dẫn cho Viện Harvard-Yenching 哈佛燕京学社, Hồng Nghiệp洪业 trước sau đã soạn Nghi lễ dẫn đắc tự 仪礼引得序 (Lời tựa cho phần sách dẫn về Nghi lễ), Lễ kí dẫn đắc tự礼记引得序 (Lời tựa cho phần sách dẫn về Lễ kí), Xuân Thu kinh truyện dẫn đắc tự 春秋经传引得序 (Lời tựa cho phần kinh và truyện của Xuân Thu), trong đó ông đã trình bày và bàn luận về các vấn đề như việc biên soạn tu sửa và lưu truyền các kinh điển Nho gia, đặc biệt nhấn mạnh tính chất tín sử của Xuân Thu, rất có tiếng vang trong giới học thuật.

    5. Tổng hợp lại những điều đã trình bày trên, xung quanh các vấn đề tính chất, tác giả, và niên đại hoàn thành của Lục kinh, những nghiên cứu trong nửa đầu thế kỉ 20 về kinh điển Nho gia trên đại thể đã trải qua lịch trình phát triển gồm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là trước phong trào Tân văn hóa Ngũ Tứ, thể hiện thành dư ba của cuộc tranh luận giữa hai phái Kim văn kinh học và Cổ văn kinh học; giai đoạn thứ hai trong khoảng từ những năm 1920 đến những năm 1940, thể hiện thành sự trỗi dậy và tạo ảnh hưởng quan trọng của chủ nghĩa thực chứng, tư trào nghi cổ, và quan điểm duy vật lịch sử.

    Có thể nói, qua những nỗ lực không ngừng nghỉ và nhiều lần khảo sát của các học giả trong nửa đầu thế kỉ XX, nghiên cứu kinh học đã gặt hái được một loạt thành tựu khiến người ta phải thán phục, các vấn đề niên đại hoàn thành, tác giả, và tính chất của các kinh điển Nho gia, ở một mức độ nhất định, đã được xử lí và giải quyết. Quan điểm cơ bản nhìn chung có thể mô tả như sau: các kinh điển Nho gia chủ yếu khởi nguồn từ thời Thương- Chu, đặc biệt là từ thời Tây Chu, những biên soạn đầu tiên được tiến hành bởi các vương quan thời Tây Chu. Kinh Dịch đại thể hoàn thành vào đầu thời Tây Chu, được nhặt nhạnh tập hợp, đính chính, tăng bổ, biên chép bởi các “vu sư tôn giáo” 宗教巫师 đương thời, đặc biệt là các quan bốc phệ 卜筮và các sử quan kiêm quản việc bốc phệ. Thư là tập hội biên “những văn hiến hồ sơ của vương thất hai triều Thương- Chu, phần lớn đều từ tay sử quan mà ra, và cũng chủ yếu được họ bảo tồn và biên tập thành sách. Việc biên tập Thi cũng có thuận lợi bởi thái độ trọng thị thi ca của vương thất nhà Chu, thi ca được quan viên trong vương thất thu thập, lựa chọn, gia công, biên tập, và hợp với nhạc. Lễ, Nhạc cũng chính là kết quả của việc chế lễ tác nhạc của vương thất nhà Chu. Còn tiền thân của Xuân Thu lại là bộ sử biên niên do sử quan nước Lỗ viết. Lúc kinh điển khởi nguồn và sơ bộ hoàn thành, cũng là lúc việc học được tổ chức tại phủ quan, các quan giữ những sách ấy, các thầy học truyền cái học ấy, sự nghiệp văn hoá giáo dục bị lũng đoạn bởi giai cấp quý tộc thống trị. Vương quan thời Tây Chu, đặc biệt là sử quan, kế thừa những di sản văn hóa và văn hiến của đời trước, sơ bộ biên tập thành một số sách vở, biến chúng thành công cụ quan trọng để lưu truyền và phát triển văn hóa dân tộc Trung Hoa, trở thành tiêu chí quan trọng cho thấy văn minh nhân loại không ngừng tiến lên. Tuy nhiên, việc biên tập điển tịch văn hóa thời bấy giờ cũng song hành với sự thịnh hành của các “vu thuật tôn giáo”宗教巫术, vả lại những điển tịch này được lưu giữ và sử dụng tại vương thất quan phủ nên cũng không thuận lợi cho việc truyền bá và phổ cập rộng khắp văn hóa học thuật. Trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, Trung Quốc bước vào thời đại quan trọng của văn minh nhân loại, nảy sinh những thay đổi to lớn trong cấu trúc kinh tế chính trị của xã hội. Nhân văn hóa và lí tính hóa dần dần trở thành chủ lưu trong phát triển văn hóa và tư tưởng. Giai cấp sĩ nổi lên và bắt đầu từ bỏ địa vị phụ dung vào vương thất, họ đã có tính tự giác cá nhân và độc lập về nhân cách, học thuật không còn là độc quyền của vương quan nữa mà đã xuống đến tầng lớp dưới, tư học 私学(việc học ở trường tư) hưng khởi, một lượng lớn điển tịch văn hóa vốn nằm trong tay các vương quan thì nay đã lưu truyền trong thiên hạ dân gian, việc chế tác và truyền bá kinh điển vì vậy cũng tiến vào một giai đoạn mới. Trong quá trình này, Khổng Tử đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nguyên bản chẳng qua chỉ là kinh điển Nho gia được vựng biên từ sử liệu văn hóa khoa học chính trị của xã hội thời Tam Đại thượng cổ; trải qua tay Khổng Tử đã được tu đính, chỉnh lí, giải thích, và dùng làm tài liệu giảng dạy trong trường tư, được truyền bá ở một phạm vi rộng hơn với một quy mô lớn hơn; về sau lại không ngừng được các học phái Nho gia chú giải, chỉnh sửa và phát huy, trở thành công cụ tinh thần để tuyên truyền chủ trương tư tưởng và quan điểm chính trị của họ. Từ thời Hán Vũ đế lại trở thành công cụ tư tưởng có màu sắc thần thánh và quyền uy, trở thành pháp điển tối cao của thời đại phong kiến, thành căn cứ lí luận để giai cấp thống trị cai trị đất nước và nhân dân. Tất nhiên, cho đến nay, về niên đại hoàn thành, tác giả, và tính chất của các kinh điển Nho gia vẫn tồn tại nhiều vấn đề khiến người ta phải bàn cãi và tranh luận không ngớt. Điều đó còn phải đợi phát hiện ra những nguồn tài liệu mới, và còn chờ sự nỗ lực nghiên cứu từ các học giả.

    NGUYỄN TUẤN CƯỜNG dịch


    Chú thích:

    [*] “Thông diễn học” 诠释学(thuyên thích học): dịch thuật ngữ tương ứng trong tiếng Anh là hermeneutics, Pháp: herméneutique, Đức: hermeneutik. Thuật ngữ này từng được chuyển ngữ sang tiếng Việt là lập luận thông diễn (Lê Tôn Nghiêm) giải thích học hoặc tường giải học (Nguyễn Văn Dân, Nguyễn Hưng Quốc), thông diễn học (Vũ Kim Chính, Trần Văn Đoàn), thông diễn luận (Nguyễn Hữu Liêm), thuyên thích học (Dương Ngọc Dũng), thuyên thích luận (Cao Phương Kỉ), thông thích luận (Ngô Tôn Huấn); ở đây theo cách dịch của GS. Vũ Kim Chính và GS. Trần Văn Đoàn, cụ thể xin xem: Trần Văn Đoàn (Đại học Quốc gia Đài Loan), Thông diễn học và khoa học xã hội nhân văn (http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/thongdien/thongdien.htm, hiện chưa đầy đủ).

    [*] Trong bài viết, tác giả ghi là “310 thiên” (三百一十篇), ở đây căn cứ theo bản Kinh Thi thông dụng hiện còn để sửa thành “311 thiên”.

    [*] Mặc chứng 默证: phương pháp nghiên cứu của phái biện cổ sử, quan niệm rằng: đối với cổ thư của một thời đại nào đó, nếu trong sử sách xưa nay không có ghi chép gì về nó thì nó sẽ là ngụy thư.

    Nguồn dịch: 《20世纪上半期儒家经典研究述略 - 以六经作者、成书年代和性质为中心》, in trong 《山东大学学报 – 哲学社会科学版》(Sơn Đông đại học học báo - Triết học Xã hội khoa học bản), số 6 năm 2002, tr.29-34.

    Người dịch và chú thích: Trong bản dịch, tất cả các chú thích và những phần trong ngoặc vuông […] là của người dịch.

    Xem tiếp phần sau: Trương Đào, Đổng Diễm, Lược thuật những nghiên cứu trong nửa sau thế kỉ XX về kinh điển Nho gia (Xoay quanh các vấn đề tác giả, niên đại hoàn thành, và tính chất của Lục kinh), Sơn Đông đại học học báo - Triết học Xã hội khoa học bản, số 5 năm 2003, tr.47-52.

    Tài liệu tham khảo:
    1. (Lưu Sư Bồi),《》(Lưu Thân Thúc di thư), : , 1997.
    2. (Bì Tích Thụy),《》(Kinh học lịch sử), : , 1959.
    3. 鸿 (Trần Hồng Tường), 《》 (Vương Quốc Duy niên phả), : , 1991.
    4. (Hồ Thích),《》(Trung Quốc triết học sử đại cương), : , 1996.
    5. (Cố Hiệt Cương biên soạn),《: 》(Cổ sử biện: quyển thứ nhất), : , 1982.
    6. (Cố Hiệt Cương),《》 (Nghiêu điển trước tác niên đại khảo/ Khảo cứu về niên đại viết thiên Nghiêu điển), in trong: (Trung Hoa thư cục biên tập bộ), 《 : 》 (Văn sử: tập 12), : , 1985, 23-71.
    7.《: 》(Tiền Huyền Đồng văn tập: quyển 4), : , 1999.
    8.《: 》(Quách Mạt Nhược toàn tập: Phần lịch sử, quyển một), : , 1982.
    9.《》(Phạm Văn Lan lịch sử luận văn tập), : , 1979.
    10. (Mã Tông Hoắc),《》(Trung Quốc kinh học sử), : , 1937./.
    11. (Tưởng Bá Tiềm), 《》(Thập tam kinh khái luận), : , 1983./.

    (Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81) 2007; Tr. 71-81)
     

Share This Page