Lý Giải Những Thông Tin Về “tứ Bất Tử” Trong Một Số Tư Liệu Hán Nôm

Discussion in 'Thông Báo Hán Nôm Học' started by admin, Sep 3, 2013.

  1. admin

    admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên

    LÝ GIẢI NHỮNG THÔNG TIN VỀ “TỨ BẤT TỬ” TRONG MỘT SỐ TƯ LIỆU HÁN NÔM
    Nguyễn Xuân Diện​
    Viện Nghiên cứu Hán Nôm
    TỨ BẤT TỬ là thuật ngữ để chỉ về bốn vị thần (thánh) được coi là linh thiêng bất tử vào bậc nhất trong tâm thức dân gian, đã được dùng trong giới khoa học trong những năm gần đây.
    Bài viết này nhằm cung cấp một số thông tin và đưa ra những lý giải xung quanh thật ngữ Tứ bất tử, từ những tư liệu Hán Nôm, hiện đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
    I- TỪ NHỮNG TƯ LIỆU
    1- Tư liệu xưa nhất về thuật ngữ Tứ bất tử mà chúng tôi được biết là bản Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập, (VHv.1772/3 q.6) do Nhà in Phúc Khê, in năm Mậu Thìn (1868) niên hiệu Tự Đức.
    Bản Dư địa chí mà chúng ta hiện có là một công trình nghiên cứu tập thể. Ngoài lời tập chú của Nguyễn Thiên Túng, lời cẩn án của Nguyễn Thiên Tích và lời thông luận của Lý Tử Tấn, Dư địa chí còn có những phần do người các thời sau (cụ thể là người các thế kỷ 16, 17, 18) đã thêm vào và sửa chữa nhiều lần. Trong số họ, có Thư Hiên Nguyễn Tông Quai (1693-1767).
    Thư Hiên Nguyễn Tông Quai là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32, sách Dư địa chí (VHv.1772/3 tờ 13a) của Nguyễn Trãi.
    Lời chú ấy như sau: “... Người đời Thanh nói: Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy”.
    (Nguyễn Thư Hiên viết: ... Thanh nhân xưng Tản Viên Đại Vương chi tự hải vãng sơn; Phù Đổng Thiên Vương chi kỵ mã đằng không; Chử gia Đồng tử chi trượng lạp thăng thiên; Ninh sơn (kim Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh chi ấn thạch đầu thai. Vị An Nam Tứ bất tử vân)(1).
    2- Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (1854-1911) - nhà học giả nổi tiếng của cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên phả dịch lục (AB.289, tờ 4a), in năm Canh Tuất 1910 có viết:
    “Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. (Vì) bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào. (Án: Ngã Tứ bất tử chi danh, Minh nhân dĩ Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đương chi nhiên; thử thời Tiên chúa vị giáng, cố vị cập thế nhân sở truyền, văn hiến khả trung. Kim tục chi).
    Trên đây là những thông tin về Tứ bất tử trong thư tịch Hán Nôm, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu tiếng Việt hiện đại về Tứ bất tử thì phong phú hơn nhiều. Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua những tài liệu đó:
    3- Nguyễn Tuân (1910-1987), trong thiên truyện Trên đỉnh non Tản in trong tập Vang bóng một thời, có viết: “... Bốn vị Tứ bất tử nơi thế giới u linh: thánh Tản Viên, chúa Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử, và Phù Đổng thiên vương”(2).
    4- Hà Kinh (1922-1995) trong cuốn Truyền thuyết Sơn Tinh viết: “Ở Việt Nam ta có bốn vị thần bất tử là: Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Bà chúa Liễu Hạnh, Tản Viên Sơn Thần”(3).
    5- Vũ Ngọc Khánh và Ngô Đức Thịnh, trong chuyên khảo về Tứ bất tử(4) đã trình bày những nghiên cứu của mình về bón vị thánh bất tử của Việt Nam, gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Giáng và Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

    II- ĐẾN NHỮNG LÝ GIẢI

    Trước hết, nói về con số bốn (tứ). Trong tư duy của người Việt, con số này mang tính ước lệ và có ý nghĩa lớn. Tứ (bốn) là một hằng số được dùng để khái quát về một phạm trù nào đó. Ví dụ: Tứ trấn, An Nam tứ đại tài, Tràng An tứ hổ, Sơn Tây tứ quý, Mỗ-La-Canh-Cót tứ danh hương v.v..
    Và việc chọn lấy 4, trong toàn thể của một tập hợp là chọn lấy những gì tiêu biểu nhất, độc đáo nhất và có tính thời đại.
    Từ bất tử cũng là một tập hợp như vậy. Cũng chính vì thế mà có đến 6 vị thánh được coi là bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt. đó là các vị: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Thánh Gióng, Liễu Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không.
    1. Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh: tên gọi của vị Thần núi Tản, vị thần tối cổ trong tâm linh dân tộc Việt. Tản Viên Sơn tức là núi Ba Vì, “núi tổ của nước ta” (Nguyễn Trãi - Dư địa chí). Núi có ba ngọn cao chót vót. Ba anh em Thánh Tản (còn gọi là Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng đẳng thần) chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi.
    Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là TÍN NGƯỠNG THẦN NÚI (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên, chúng tôi khẳng định rằng, nói Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi. Như vậy, đương nhiên cả ba vị thần đó đều thuộc Tứ bất tử.
    Cũng từ cốt lõi của tín ngưỡng thần núi của người Việt, cho nên có hiện tượng công chúa Ngọc Hoa, vợ của Thánh Tản (người anh cả) không được đề cao ngang hàng với Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, dù rằng ở một só làng nơi giáp ranh giữa Sơn Tây, Ba Vì, Phú Thọ vẫn có những lễ hội đề cao Ngọc Hoa.
    Văn tế, sự sắp xếp các ngai thờ, nghi lễ, tự khí... mà chúng tôi khảo sát tại những ngôi đền thờ Thánh Tản ở vùng xung quanh núi Ba Vì càng góp phần làm sáng tỏ cho những nhận định trên đây.
    2. Chử Đạo Tổ: Nếu như ở huyền thoại Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh, người ta có thể tìm thấy những lớp ý nghĩa cổ xưa nhất của tín ngưỡng chất phác, nguyên thủy bằng cách bóc tách những lớp trầm tích tiềm ẩn trong văn bản thần tích thì với huyền thoại Chử Đồng Tử, công việc trở nên rất khó khăn. Huyền thoại Chử Đồng Tử (Chử Đạo Tổ) là câu chuyện của Đạo Giáo, Đạo Thần Tiên, một tín ngưỡng vốn du nhập từ bên ngoài vào nước ta từ rất sớm. Cốt lõi huyền thoại cũng như tín ngưỡng Chử Đạo Tổ là tín ngưỡng Đạo giáo mang màu sắc tín ngưỡng dân gian thuần Việt. Chử Đồng Tử chính là người đi tiên phong trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác. Dân gian tôn vinh Chử Đồng Tử là Chử Đạo Tổ là vì thế.
    Khảo sát hệ thống thờ tự ở đền chính thờ Chử Đồng Tử ở Đa Hòa, chúng tôi thấy, từ rất xa xưa, ở đó đã có ba pho tượng đồng và ba pho tượng đất mà cứ vị ngồi ở giữa là Chử Đạo Tổ, hai vị ở hai bên là Tiên Dung và Nội Trạch Tây Cung(5). Ở đình Tự Nhiên (huyện Thường Tín, Hà Tây), đối diện với Đa Hòa qua sông Hồng, khi mở hội cũng rước ba cỗ long kiệu ba vị kể trên.
    Mặc dù vậy, nếu xuất phát từ cốt lõi tín ngưỡng Chử Đạo Tổ thì trong số ba vị này, chỉ có Chử Đồng Tử, là thuộc về Tứ bất tử, của tâm thức dân gian Việt Nam.
    3. Thánh Gióng - là vị “anh hùng độc lập” trong Tứ bất tử.
    4. Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Liễu Hạnh và quá trình hội nhập vào Tứ bất tử:
    Trước kia, khi Liễu Hạnh chưa xuất hiện (giáng thế) thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là một trong Tứ bất tử có lẽ là từ những “tiêu chí” sau đây:
    - Cả hai vị đều “giáng sinh” trong một triều đại sớm của lịch sử Việt Nam.
    - Từ hai vị này đều làm nảy nở những câu chuyện đậm màu sắc Đạo giáo - một tín ngưỡng sớm đến với Việt Nam và có nhiều khả năng hội nhập với tín ngưỡng bản địa.
    - Hai vị này đều hóa thân sau khi mất, và đầu thai thành nhiều kiếp.
    Khi Liễu Hạnh “giáng sinh” - mà theo thư tịch cổ thì vào thế kỷ XVI - cũng chính là lúc ý thức hệ Nho giáo ở nước ta đang đi vào con đường suy thoái. Thực trạng xã hội loạn lạc, chiến tranh giết tróc, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ, khao khát cháy bỏng về một cõi tâm linh an lạc, siêu thoát. Phật giáo và Đạo giáo có cơ phát triển trong dân gian. Về Phật giáo, quan niệm Tịnh Độ tông với lối sống từ bi hỷ xả, với phương thức thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, với tính chất dung hòa và phổ cập đã trở nên thắng thế và phổ biến trong suốt các thế kỷ XVI và XVII. Còn Đạo giáo, với những bùa chú, phép thuật, với những lối hành đạo phức tạp bởi những biểu tượng đã nhiều lúc trở thành cứu cánh để người ta tìm về làm chỗ dựa và nuôi dưỡng niềm tin về sự giải thoát. Nội Đạo tràng ra đời vào lúc này và sớm trở nên thịnh hành, được vua Lê thừa nhận. Tín ngưỡng tam phủ, mà trung tâm là thờ Mẫu hình thành và phát triển khá nhanh.
    Liễu Hạnh “giáng thế” đáp ứng nhu cầu thỏa mãn tâm linh của mọi giai tầng trong xã hội, phù hợp với tâm thức dân gian Việt Nam. Nếu so với Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không thì sự phụng thờ Liễu Hạnh bắt nguồn sâu xa từ trong tín ngưỡng thuần Việt của tâm thức dân gian, rồi lại xâm thực và hòa đồng vào tín ngưỡng Tứ phủ, nên tín ngưỡng này mang nhiều hơi hướng thời đại, cập nhật và phù hợp với thực tại. Ra đời trong thời kỳ đó, và với vai trò như vậy, việc tín ngưỡng Liễu Hạnh trở thành trung tâm của tín ngưỡng Tứ phủ và hội nhập với Tứ bất tử, trở thành biểu tượng của sự trường tồn là một điều dễ hiểu.
    Từ đó đến nay, tín ngưỡng Tam phủ rồi Tứ phủ luôn luôn là một trung tâm tín ngưỡng của tâm thức dân gian. Ảnh hưởng của tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh mang tính bao trùm, có phạm vi rộng lớn hơn so với ảnh hưởng của Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không là điều đã khẳng định trong dân gian.
    Tóm lại, trong tâm thức dân gian Việt Nam từng có Tứ bất tử. Các vị từng được coi là có chân trong Tứ bất tử gồm:
    - Tản Viên Sơn thánh (3 anh em).
    - Chử Đạo Tổ.
    - Thánh Gióng.
    - Thánh Láng Từ Đạo Hạnh.
    - Nguyễn Minh Không.
    - Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
    Qua thời gian, cùng với sự xuất hiện những yếu tố mới, mang tính thời đại về tư tưởng, triết lý, quan niệm thì niềm tin, tín ngưỡng, quan niệm về Tứ bất tử có sự thay đổi, dẫn đến việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh thay thế Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đứng vào hàng Tứ bất tử như là một tất yếu.
    Tuy nhiên, những cắt nghĩa trên đây chỉ là những nét phổ quát nhất, trên mặt bằng tín ngưỡng của dân gian trong phạm vi rộng lớn, mang đặc điểm chung nhất. Ở một số nơi, một số vùng, quan niệm tín ngưỡng vẫn có những nét riêng, và tất nhiên, không phổ biến và chỉ có ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ, hẹp.
    Chú thích:
    1. Xem ghi chép này ở cuốn: Tản Sơn Đại Tiên thượng thừa chân kinh động huyền tập (A.1249/3b, tờ 19b), Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).
    2. Nguyễn Tuân: Vang bóng một thời, Nxb. Văn học. H.1988. tr.105.
    3. Hà Kỉnh, Đoàn Công Hoạt: Truyền thuyết Sơn Tinh. Ty Văn hóa thông tin Hà Tây xuất bản năm 1973. tr.69.
    4. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, H.1990.
    5. Hùng triều Chử Đồng Tử cập Tiên Dung, Tây Cung nhị vị tiên nữ ngọc phả. Đa Hòa xã thần tích (A.2468, tờ 11a, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).
    Thông báo Hán Nôm học 1996 ( tr.70-78)
    https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq
     

Share This Page