Những Hoành Phi, Câu Đối Ở Chùa Hàm Long

Discussion in 'Thông Báo Hán Nôm Học' started by admin, Sep 2, 2013.

  1. admin

    admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên

    NHỮNG HOÀNH PHI, CÂU ĐỐI Ở CHÙA HÀM LONG
    NGUYỄN QUANG KHẢI

    Sở Nội vụ tỉnh Bắc Ninh

    Chùa Hàm Long (tên chữ là Long Hạm tự) tọa lạc trên thế núi rất đắc địa tại thôn Thái Bảo xã Nam Sơn TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, được kiến tạo từ thời Lý, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng công nhận là Di tích Lịch sử văn hóa tại Quyết định số 28/BVH. Trải qua nhiều năm tháng, nhiều hạng mục công trình kiến trúc, nhiều bức hoành phi câu đối có giá trị lịch sử giá trị văn hóa đã không còn nữa, nhưng đến nay, những di sản văn tự Hán - Nôm này đã được khôi phục, góp phần làm cho cảnh chùa thêm khang trang, tố hảo. Trong những lần về thăm chùa, chúng tôi có ghi chép nguồn tư liệu quí được thể bằng văn tự Hán, phản ánh tâm thức Phật giáo của người dân vùng Bắc Ninh, mà nếu được đọc, chúng ta sẽ thấy có nhiều điều lý thú, bổ ích.

    I.Những hoành phi, câu đối ở nhà tiền đường

    A.Những câu đối được khắc trên các cột hiên bằng đá xanh và các cột xây gạch nhà tiền đường

    1.Những câu đối được khắc trên các cột hiên bằng đá xanh

    + Hai cột giữa:

    壹切眾生皆有佛性

    自猶信仰自在人心

    Tạm dịch:

    Tất thảy chúng sinh đều có Phật tính,

    Tự do tín ngưỡng ở tại nhân tâm.

    + Hai cột bên:

    蓮花臺上雲來集

    法雨塵中色即空
    https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq
    Tạm dịch:

    Vân hoa đài thượng nơi nơi đến,

    Pháp vũ trong đời sắc tức không.

    + Hai cột ngoài:

    四海風光隨處好

    滿天雨露應時辛

    Tạm dịch:

    Bốn biển phong quang đều cảnh đẹp,

    Đầy trời mưa móc ứng điềm lành.

    2.Những câu đối được đắp nổi trên các cột xây gạch

    + Hai mặt cột hướng vào nhau:

    保嶺奇觀龍鳳龜麟鍾秀氣

    含談曆史東西南北說名藍

    Tạm dịch:

    Núi quí kỳ quan Long, Phượng, Qui, Lân làm nên tú khí,

    Bàn trong lịch sử Đông, Tây, Nam, Bắc nổi tiếng danh lam.

    + Hai mặt cột hướng ra sân chùa:

    黃水青山浩蕩幡臺辛棟宇

    璧沙紅樹玲窿太嶺別乾坤

    Tạm dịch:

    Sông vàng, núi biếc, sa sát phan đài, xà cột mới,

    Sỏi xanh, cây cỏ, long lanh núi lớn nhất càn khôn.

    + Hai mặt cột hướng ra hai bên:

    寶折名熱香燈誠透達

    金鍾宣妙倡蓮座瑶聞

    Tạm dịch:

    Giữ gìn sự sáng suốt, chăm việc hương đăng, lòng thành thấu đạt,

    Chuông vàng truyền lời xướng xuất từ tòa sen vọng mãi tiếng ngài.

    3.Trên trán cổng chùa phía Đông, ở chính giữa có hai chữ 東來 “Đông lai”, bên phải có hai chữ 明新 “Minh tâm”; ở giữa bức cánh phong bên phải có chữ “Phúc” rất lớn. Theo cánh bố cục đối xứng, có lẽ bên trái có chữ 祿 “Lộc” và đối với “Minh tâm” trên trán cổng bên trái có thể là có hai chữ 建性“Kiến tính”, nhưng các chữ này đã bị bong mất từ lâu, hiện tại chỉ còn đôi câu đối:

    頷山素慍如如在

    龍地風光處處來

    Tạm dịch:

    Núi Hàm huyền ảo muôn năm có,

    Rồng lớn phong quang mọi nẻo về.

    Chếch về phía Đông một chút là cổng trường Trung cấp Phật học, trên đó có đôi câu đối:

    路入菩提求妙道

    門開方便利群生

    Tạm dịch:

    Đường đến Bồ đề cầu đạo sáng,

    Cửa khai phương tiện dẫn muôn người.

    4.Tại cửa phía Tây, trên chính giữa trán cổng có hai chữ 西來“Tây lai”, hai bên có chữ 開示“Khai thị” và 悟入“Ngộ nhập”. Hai bức cánh phong ở hai bên có chức 圓“viên” và 明“minh” rất lớn và đôi câu đối ở hai bên:

    世有慈悲登覺岸

    人能善遇入禪關

    Tạm dịch:

    Đời có từ bi lên bến Giác,

    Người hay giác ngộ đến cửa Thiền.

    A.Trong nhà tiền đường và tam bảo

    1Các bức hoành phi ở gian giữa:

    -Gian giữa: 大雄寶殿“Đại hùng bảo điện”

    -Gian bên phải: 心珠顯現“Tâm châu hiển hiện”

    -Gian bên trái: 智創圓明“Trí sáng viên minh”

    -Gian cuối bên phải: 神功莫側“Thần công mạc trắc”

    -Gian cuối bên trái: 聖德難量“Thánh đức nan lượng”

    1Các đôi câu đối tại gian giữa:

    苦海慈航閽拘置濁

    迷津保筏覺路金繩

    Và:

    心憶念佛法僧見性搖詹三寶地

    數棹真香界定慧至誠透九蓮臺

    Tạm dịch:

    Lòng muôn nhớ niệm Phật, Pháp, Tăng kiến tính ngước lên ngôi Tam bảo,

    Nhiều lần hương khói Giới, Định, Tuệ tâm thành sẽ thấu đến đài sen.

    1Các hoành phi và câu đối ở tam bảo

    + Hoành phi: 三戒大師 “Tam giới đại sư”, 佛日復忠 “Phật nhật phục trung”, 摘降神嶽“Trích giáng thần nhạc”, 轉法輪“Chuyển pháp luân”.

    + Câu đối:

    法力弘深積貞祥於是戒

    慈心廣大敷吉慶於人間

    Tạm dịch:

    Pháp lực thâm sâu chứa sự tốt lành nơi trần thế,

    Từ tâm quảng đại huy hoàng khắp cả chốn nhân gian.

    玉質現桃枝噴水九龍沐欲

    金身來雪嶺含花眾鳥迎歡

    (本鄉沐恩弟子丙午科秀材號花岩阮鼎梅拜撰. 住持龍頷寺弟子字含煇阮玉蘊拜書)

    Tạm dịch:

    Ngọc chất hiện cành đào, tắm rửa có chín rồng phun nước,

    Thân vàng đến núi Tuyết, hoa cười chim múa cảnh hân hoan.

    (Tú tài khoa Bính Ngọ hiệu Hoa Nham Nguyễn Đỉnh Mai soạn; trụ trì chùa Hàm Long Nguyễn Ngọc Uẩn viết chữ).

    五分真香信敬一心通三界

    十方賢聖垂慈保守度萬民

    Tạm dịch:

    Giữ giới, hương thơm, tín kính nhất tâm thông ba cõi,

    Mười phương hiển thánh, từ tâm bảo hộ cõi nhân gian.

    王質降皇宮九龍噴水齊沐浴

    金親煇色相白鳥含花共朝參

    Tạm dịch:

    Khí chất đế vương giáng xuống hoàng cung, tắm gội có chín rồng phun nước,

    Sắc tướng sáng ánh hoàng kim chói lọi, ngàn hoa, bách điểu cùng bái chào.

    II.Tại nhà khách

    Ở gian chính giữa và sâu vào phần chuôi vồ có các bức hoành phi: 依正莊嚴 “Y chính trang nghiêm”, 慈般普渡 “Từ ban phổ độ”, 觀世音“Quan thế âm” và các đôi câu đối (từ ngoài vào):

    1- 九品蓮臺金相端嚴垂接引

    七重寶樹玉豪燦爛放光明

    Tạm dịch:

    Cửu phẩm đài sen, kim tướng đoan nghiêm, cùng tiếp dẫn,

    Thất trùng bảo thụ, ngọc lành xán lạn phóng quang minh.

    2- 妙相端居金色界

    神通大放玉豪光

    Tạm dịch:

    Tướng tốt tựa ánh vàng nơi trần thế,

    Thần thông như ngọc sáng phòng hào quang.

    3- 六知運神通普濟群生百億

    三乘開聖教色含世界三千

    Tạm dịch:

    Lục trí chuyển thần thông, rộng cứu chúng sinh muôn vạn,

    Tam thừa mở thánh giáo, hiện thân thế giới ba nghìn.

    4. 掌印護持廣度群生開覺路

    眼心照見多方應現救迷津

    Phiên âm:

    Chưởng ấn hộ trì, quảng độ quần sinh khai giác lộ,

    Nhãn tâm chiếu kiến, đa phương ứng hiện cứu bến bờ mê.

    III. Tại Ly trần viện

    1Phía tường ngoài

    Có chữ 睪葉留芳 “dịch diệp lưu phương”

    Trên bức tường hoa chắn mái, tại gian giữa có đề ba chữ 玲瓏洞 “Linh long động”, bên phải có chữ 蓮花 “Liên hoa”, bên trái có chữ 寶樹“Bảo thụ” và các đôi câu đối được viết (hoặc đắp nổi) trên các cột trụ:

    1-Hai cột gian giữa:

    群感經亦警醒鍾棒謁睡覺迷夢魂胥相覺悟

    救生扶是超度筏普濟墮鬼沈輪劫隨即超昇

    Phiên âm:

    Quần cảm kinh, diệc cảnh tỉnh chung bổng yết thụy giác, mê mộng hồn tư tương giác ngộ,

    Cứu sinh phù trị siêu độ phiệt phổ tế, đọa quỷ trầm luân kiếp tùy tức siêu thăng.

    2-Mặt hai cột trụ hướng vào nhau:

    阮國师修真伊然佛迹

    鄭覺祖救劫自在神孚

    Tạm dịch:

    Phù khả đảo, thành khả cầu, thánh thần linh tích,

    Sơn chỉ cao, thủy chi nhiễu, kim cổ kỳ quan.

    3- Hai mặt cột trụ hướng ra sân

    符可禱誠可求聖神靈跡

    山之高水之繞今古奇觀

    Tạm dịch:

    Bùa có thể cầu cúng, thành tâm có thể cầu xin thánh thần linh hiển,

    Sự cao tâm của núi, sự uốn lượn của sông là cảnh dẹp xưa nay.

    B.Bên trong Ly trần viện

    Tại phía trước và trên cao có các bức hoành phi: 琉璃院“Lưu ly viện”, 屋光明玉“Ốc quang minh ngọc”, 山海重留“Sơn hải trùng lưu”; ở gian chính giữa, có bức 祖印重光 “Tổ ấn trùng quang”; hai tấm biển gỗ 高禪圓覺 “Cao thiền Viên Giác” và 色賜和尚 “Sắc tứ Hòa thượng” dựng trên giá bát bửu và các đôi câu đối:

    海不苦川不迷極樂世界

    衣有傳燈有繼成大山門

    (本邑沐恩弟子丙午科秀材號花岩字透靈阮鼎梅奉提; 璃塵院鑑院字含煇阮玉蘊拜書)

    Tạm dịch:

    Không bể khổ, chẳng sông mê, đó là cực lạc thế giới,

    Có truyền thừa, có kế đăng, thực là thành đại sơn môn.

    (Tú tài khoa Bính Ngọ người ấp Mộc Ân đệ tử Tú tài khoa Bính Ngọ hiệu Hoa Nham Nguyễn Đỉnh Mai đề; Giám viện Ly Trần viện tự Hàm Huy Nguyễn Ngọc Uẩn viết chữ).

    C. Tại hậu cung: có các bức hoành phi, câu đối, cuốn thư gỗ. Tại gian giữa có bức hoành phi 銀湟演派“Ngân, Hoàng diễn phái (pháp phái truyền dài như sông Ngân, sông Hoàng); hai bên có hai bức cuốn thư 石點“Thạch điểm”, 花生“Hoa sinh”. Đôi câu đối:

    始開山於龍頷柱持鍾遇孔路國师之心法界當春而神接並域

    初化盈於蓮派之禪中受戒珠安子之宗封繼措下於佛迹名篮

    (男子冬 ; 孝靈九年造 , 本邑茂材撰)

    Phiên âm:

    Thủy khai sơn ư Long Hạm trụ trì chung ngộ Khổng Lộ quốc sư chi tâm pháp giới đương xuân nhi thần tiếp tịnh vực,

    Sơ hóa doanh ư Liên Phái chi thiền trung thụ giới, Châu An Tử chi tông phong kế thố ư Phật Tích danh lam.

    (Giáp Tý đông, Hiếu Linh cửu niên tạo; bản ấp Mậu Tài soạn).

    III.Nhà mẫu

    Nhà mẫu có các bức hoành phi: 聖中王“Thánh trung vương”, 母儀天下“Mẫu nghi thiên hạ”, 東阿顯聖“Đông A hiển thánh”, 山嶽龍神“Sơn nhạc long thần” và các câu đối (từ ngoài vào):

    德拜九天母座樓臺金紫閣

    恩霑四海仙宮殿玉乾坤

    Tạm dịch:

    Lễ đức chín tầng trời, tòa mẫu lầu son gác tía,

    Ơn nhuần bốn biển Tiên cung điện ngọc càn khôn.

    玉魁方藤燦爛花度和大地

    鸟初正玲瓏璧漢耀當天

    Phiên âm:

    Ngọc khôi phương đằng xán lạn hoa độ hòa đại địa,

    Điểu sơ chính linh lung bích hán diệu đương thiên.

    IV.Nhà hành lang

    Tại nhà hành lang bên hữu (nay là nơi viết sớ), phía tường ngoài có hai đôi câu đối đắp nổi. Một đôi, vế đầu chỉ còn hai chữ 月照“nguyệt chiếu”, vế thứ hai còn đủ 鐘高動理石成聲“Chung cao động lý thạch thành thanh”. Một đôi còn đủ:

    宇宙眼窮滄海外

    議曇身在地靈中

    Tạm dịch:

    Nhìn khắp đất trời, ngoài đó chỉ là biển biếc,

    Bàn về cõi Phật, thân này ở chốn linh thiêng.

    Tại nhà hành lang bên tả (nay là nơi ni sinh ở) có hai đôi câu đối đắp nổi trên cột tường bên ngoài, nhưng đã rời mất cả, chỉ còn vài nét, không thể đọc được.

    V.Lầu Quan âm: có hai đôi câu đối.

    1-Đôi hướng ra cổng:

    普濟生靈周浦厄

    隨時變化現真身

    Tạm dịch:

    Cứu khắp sinh linh, diệt trừ khốn khổ,

    Theo thời biến hóa, hiện rõ chân thân.

    2- Đôi câu đối hướng vào nhau:

    芙容花面春風暖

    楊柳枝頭日露香

    Tạm dịch:

    Mặt đẹp như hoa, đầu xuân khoe sắc,

    Móc thơm cành liễu, ngày ngày phát ban.

    VI.Nhà tăng

    Tại tầng dưới, trên cột tường phía ngoài, có các đôi câu đối:

    皇圖拱固歌法力

    佛日煇煌祝聖宮

    Tạm dịch:

    Đất vua bền vững, ca pháp lực,

    Ánh sáng huy hoàng, chúc thánh cung.

    宇宙內均霑聖教

    天地間靈在春風

    Tạm dịch:

    Ở trong vũ trụ ở đâu cũng có thánh giáo tưới nhuần,

    Giữa khoảng trời đất linh thiêng đều có gió xuân chứng kiến.

    山深寺古人非俗

    水繞花宸景亦仙

    Tạm dịch:

    Núi thẳm, chùa xưa, người không tục,

    Nước chảy, hoa cười, cảnh cũng Tiên.

    VII.Nhà ni

    1.Bên ngoài cửa có hoành phi 應禮臺 “Ứng lễ đài” và đôi câu đối:

    客堂獻禮隨心願

    咸寺功文自意求

    Tạm dịch:

    Khách vào hiến lễ tùy tâm nguyện,

    Ẩn tại câu văn thuận ý cầu.

    2.Bên trong có bức hoành phi 假德基“Giả đức cư” và các câu đối:

    修不二門席上對談追素客

    求無上道塵中應接古今人

    Tạm dịch:

    Tu chẳng nhị môn, trên chiếu luận đàm tìm khách quí,

    Cầu thầy cao đạo, trong đời ứng tiếp mọi lớp người.

    不憚艱難地換灰行極樂

    莫慊青淡天久勝景正修

    Tạm dịch:

    Chẳng sợ gian nan, đất thường biến thành nơi cực lạc,

    Không hiềm thanh đạm, cảnh đẹp xưa chính pháp tu.

    1-Câu đối chữ quốc ngữ:

    Quý hóa thay phong cảnh Hàm Long, bầu thế giới vang lừng ba cõi,

    Vui thú nhỉ, Việt Nam độc lập, cuộc đấu tranh khét tiếng năm châu.

    *

    Tìm hiểu nội dung các hoành phi, câu đối hiện có ở chùa Hàm Long, chúng tôi có một số nhận biết như sau:

    Một là, cũng như hoành phi, câu đối ở nhiều ngôi chùa cổ ở Bắc Ninh, những hoành phi câu đối ở chùa Hàm Long (thuộc tỉnh Bắc Ninh) phần lớn có nội dung tuyên dương và ca ngợi công đức Phật Thích ca Mâu ni, các vị Bồ tát, thánh mẫu, các vị cao tăng đã từng hành đạo tại chùa có nhiều cống hiến đối với Giáo hội và xã hội. Đặc biệt, một số đôi câu đối ở đây có đề cập đến các vị tổ khai sơn và các vị cao tăng nổi tiếng đã từng trụ trì chùa, như: Nguyễn Minh Không, Trịnh Hòa thượng và sự tồn tại của Ly trần viện với hai biển ngạch “Sắc tứ Hòa thượng” và “Cao thiền Vân Giác”,... đã làm cho chùa Hàm Long có đặc điểm riêng mà không ngôi chùa nào ở Bắc Ninh có được.

    Hai là, nhiều đôi câu đối có nội dung ca ngợi cảnh đẹp hiếm có của ngôi cổ tự từng tồn tại hàng ngàn năm nay. Điều này có thể giúp người đọc hình dung quy mô của các công trình kiến trúc và sự sầm uất linh thiêng của chùa Hàm Long thời cổ.

    Ba là, đọc các đôi câu đối và tìm hiểu cách thờ tự của chùa Hàm Long, chúng ta thấy rằng cách thờ tự ở đây có nét rất riêng. Đó là việc thờ Ma za phu nhân, Ca Diếp, Thích ca Mâu ni ở tư thế đứng mà không theo mô thức thờ tự truyền thống của Phật giáo Đại thừa (tượng đồng, cao hơn người thật). Phải chăng, đây là sự thử nghiệm một cách thờ tự mới của người xưa./.

    (Thông báo Hán Nôm học 2009, tr.533-545)
     

Share This Page