Non nước trong mưa - Một bài thơ của thi sĩ Miên Tông - (Vua Thiệu Trị)

Discussion in 'Thông Báo Hán Nôm Học' started by nhandang123, Jun 19, 2015.

  1. nhandang123

    nhandang123 Guest

    NON NƯỚC TRONG MƯA - MỘT BÀI THƠ CỦA THI SĨ MIÊN TÔNG - VUA THIỆU TRỊ

    Bùi Văn Chất
    Câu lạc bộ Hán Nôm Nghệ An
    Trên đây là bản chữ Hán bài Vũ trung sơn thủy của thi sĩ Miên Tông - vua Thiệu Trị được xếp theo hình bát quái trên bức khảm xà cừ tại điện Long An, nay là Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế (H.1).

    Phiên âm:
    Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn
    Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh
    Sơn tỏa ám văn thôi trận trận
    Lãng sinh khiêu ngọc địch thanh thanh
    Sàn sàn thủy giản đài tư nhuận
    Dụng dụng ba chân liễu mậu vinh
    Nhàn diếu nhất chu ngư dật tấu
    Hướng lâm song tiễn yến phí khinh.

    Dùng thể hồi văn liên hoàn, trắc bằng 4 vần, theo tác giả, bài thơ trên, có thể đọc thành 64 bài thất ngôn, ngữ ngôn. Tuy nhiên chưa có vị nào đọc hơn 4 cách, mặc dù Viện Bảo tàng Huế đã nhiều lần mời gọi.

    Năm 1972, trên tạp chí của Hội Nghiên cứu Đông Dương, Pierre Daudin, một học giả phương Tây, đã giải ra 12 bài thất ngôn bát cú. Năm 1995 nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Tân Phong tìm ra đúng 64 cách. Năm 1998, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn tìm thêm 64 cách nữa, tức 128 bài trên một bài thơ.

    Về cách giải, các học giả đã dày công nghiên cứu, vạch ra những đường nét chính để mọi người theo đó suy ra, đọc tiếp.

    Ở bài viết này, chúng tôi xin nêu lên những cảm nhận ban đầu về một số cách đọc và từ những cách đọc ấy nhận ra nét độc đáo vẻ kỳ bí của bài thơ, hiểu thêm thú chơi thơ trong dòng văn hóa Việt của người xưa.

    Bằng cách đọc ngược lại, từ dưới lên ta có thêm bài thơ đủ 4 vần trắc: Hướng, dạng, lãng, trướng, tương ứng với: Tấn, trận, nhuận, tấn và 4 vần bằng: Nhàn, sàn, san, loan, tương ứng: Thanh, thanh, vinh, khinh của bài nguyên mẫu.

    … Khinh phi yến tiễn song lâm hướng
    Tấn dật ngư chu nhất điếu nhàn
    Vinh mậu liễu châu ba dạng dạng
    Nhuận tư đài giản thủy sàn sàn
    Thanh thanh địch ngọc khiêu sinh lãng
    Trận trận thôi vân ám tỏa san
    Thanh biện ngạn tiền phong dật trướng
    Tấn triều giang hạ vũ hoàn loan.
    Cũng như bài “Mẹ” các bài “Con” sau này, 8 câu thành 4 cặp, cặp nào cũng bám sát chủ đề: Non nước trong mưa.
    Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn / Tấn triều giang hạ vũ hoàn loan
    Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh / Thanh biện ngạn tiền phong dật trướng….
    Ngay cả khi bớt đi hai chữ đầu hoặc hai chữ cuối, mỗi câu còn 5 chữ (từ), đọc thành bài thơ thể ngũ ngôn, thì, từng cặp một vẫn giữ được ý tứ chủ đề.
    Liễu châu ba dạng dạng / Dạng dạng ba châu liễu
    Đài giản thủy sàn sàn / Sàn sàn thủy giản đài

    Hoặc: Thủy giản đài tư nhuận / Nhuận tư đài giản thủy
    Ba châu liễu mậu vinh / Vinh mậu liễu châu ba.
    Vậy là càng đọc càng tìm ra nhiều cách đọc, càng nhận ra nhiều điều thú vị. Ấy là thú chơi thơ.
    Thú chơi thơ càng thú vị, hứng khởi khi có được nhiều người thưởng thức, nhiều người tham gia. Việc giải nghĩa dịch thơ không ngoài ý đó.
    Thế nhưng dịch sao cho sát, cho thoát đối với bất kì bài nào cũng khó. Lại càng khó đối với loại thơ đặc biệt này, bởi, còn phải dịch sao cho bảo đảm vần, nhịp, đúng câu, từ, để khi áp đặt phương pháp vận hành theo cách đã dùng cho nguyên tác vẫn khớp bản dịch, nhất làn hững từ láy.
    Dưới đây xin dịch bài thơ chính và một số cách đọc khác nhau:

    NON NƯỚC TRONG MƯA
    Giải nghĩa: 1. Mưa dồn, nước chảy quanh, triều sông dâng tràn ngập.
    2. Trước gió, nước mênh mông bờ bến trong xanh
    3. Núi mịt mù mây đùn lớp lớp, tới tấp
    4. Sóng dâng lay giọt nước tiếng lanh canh
    5. Lờ đờ (sàn sàn) trên suối rêu tươi nhuận
    6. Sóng sánh (dạng dạng) bên cồn cỏ mướt xanh
    7. Nhàn một thuyền câu lúc thư thả (dật) lúc nhanh chớp (tấn)
    8. Dóng hướng về rừng, đèn én dăng cánh kéo (tiễn) nhẹ nhàng bay

    Bản 1. Dịch từ nguyên bản.
    1.Dồn mưa nước cuộn triều dâng ngập
    2.Lộng gió sông dào bến biếc xanh
    3.Non phủ kín mây tuôn tới tấp
    4.Sóng khêu thưa giọt gõ lanh canh
    5.Lan man suối trải rêu tươi mập
    6.Sóng sánh cồn vươn cỏ tốt xanh
    7.Nhàn thoáng một câu, thuyền nhẹ tắp
    8.Dóng rừng dăng kéo én bay nhanh

    Bài 2. Đọc ngược
    8’ Nhanh bay én kéo dăng rừng dóng
    7’ Tắp nhẹ thuyền câu một thoáng nhàn
    …6’ 5’ 4’ 3’ đến
    2’ Xanh biếc bến đào sông gió lộng
    1’ Ngập dâng triều cuộn nước mưa dồn

    Bản 3. Đọc 5 chữ sau:
    1. Nước cuộn triều dâng ngập
    2. Sông dào bến biếc xanh
    3. Kín mây tuôn tới tấp
    4. Thưa giọt gõ lanh canh
    5. Suối trải rêu tươi mập
    6. Cồn vươn cỏ tốt xanh
    7. Một câu, thuyền nhẹ tắp
    8. Dăng kéo én bay nhanh

    Bản 4. Cũng từ bản 3, giữ nguyên câu, đọc ngược
    8. Dăng kéo én bay nhanh
    7. Một câu, thuyền nhẹ tắp
    ….6, 5, 4, 3 đến
    2. Sông dào bến biếc xanh
    1. Nước cuộn triều dâng ngập

    Bản 5. Từ bản 1, giữ nguyên câu đọc ngược.
    8. Dóng rừng dăng kéo én bay nhanh
    7. Nhàn thoáng một câu, thuyền nhẹ tắp
    6, 5, 4, 3 đến
    2. Lộng gió sông dào bến biếc xanh
    1. Dồn mưa nước cuộn triều dâng ngập

    Bản 6. Theo bản 1 đọc ngược, đảo vế từng cặp theo thứ tự 2-1, 4-3, 6-5, 8-7
    Xanh bến biếc dào sông gió lộng
    Ngập triều dâng cuộn nước mưa dồn
    Canh lanh gõ giọt thưa khêu sóng
    Tấp tới tuôn mây kín phủ non
    Xanh tốt cỏ vươn cồn sánh sóng
    Mập tươi rêu trải suối man lan
    Nhanh bay én khó dăng rừng dáng
    Tắp nhẹ thuyền câu một thoáng nhàn

    Bản 7. Từ bản 6 đọc ngược lại
    Nhàn thoáng mọt câu / thuyền nhẹ tắp
    Dóng rừng dăng kéo / én bay nhanh

    Dồn mưa nước cuộn dâng triều ngập
    Lộng gió sông dào bến biếc xanh
    https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq
    Bản 8. Theo bản 1, đọc ngược từ chữ thứ 5, để yên 2 chữ (từ) cuối:
    Triều cuộn nước mưa dồn/ dâng ngập
    Bến dào sông gió lộng/ biếc xanh
    Tuôn mây kín phủ non/ tới tấp
    Gõ giọt thưa khêu sóng/ lanh canh
    Rêu trải suối lan man/ tươi mập
    Cỏ vươn cồn sóng sánh/ tốt xanh
    Thuyền câu một thoáng nhàn/ nhẹ tấp
    Én kéo dăng rừng dóng/ bay nhanh

    Bản 9. Theo bản 1, đọc dưới lên, đảo 2 chữ đầu câu cho vào cuối
    Dăng kéo én bay nhanh/ rừng dóng
    Một câu, thuyền nhẹ tắp/ thoáng nhàn
    6,5,4,3
    Sông dào bến biếc xanh/ gió lộng
    Nước cuộn triều dâng ngập/ mưa dồn
    v.v….
    Cứ thế suy ra 64 bài, đọc đủ. Nhờ âm đơn của từ tiếng Việt, Hán Việt, mà ta lợi dụng tối đa lợi thế ấy, khi chọn lựa được từ thích hợp. Ấy cũng là một thú chơi thơ.

    Nhân nói về thú chơi thơ, dưới đây xin giới thiệu một bài thơ theo kiểu khác.
    1. Tương cầu tương ứng bất tương đương
    2. Điền dã hứa đa thức dã hương
    3. Nhật xuất kim trì hà phú mạo
    4. Nguyệt sinh ngọc bệ tất chiêu chương
    5. Tảo khan thế thượng phù trầm mộng
    6. Tịch kiến trần trung quý tiện vương
    7. Tâm niệm bồng dinh hồ điệp kí
    8. Kỳ tai, ngôn ngữ tảo phong sương

    Bài thơ được đọc từ thời niên thiếu, thuở học trường nhà, đã hơn sáu mươi năm, lỗ mỗ nhớ. Không biết tự sách nào, không rõ tên tác giả. Lớp lớn tuổi hơn, học lớp trên, thời ấy kháo nhau: Thơ Tiên. Bài này tuy không kỳ bí như bìa Vũ trung sơn thủy của vua Thiệu Trị, nhưng được truyền tụng trong dân gian, cũng không kém phần độc đạo. Với 48 chữ được viết liên hoàn trên một đường tròn hay xếp theo hình bát quái (như đã thể hiện ở đầu bài viết này) đọc thành bài thơ thất ngôn bát cú. Bằng cách dùng chữ ở nửa dưới của chữ cuối câu trước làm chữ đầu của câu tiếp theo; cứ thế cho đến chữ cuối cùng của bài thơ, lấy chữ ở nửa dưới làm chữ đầu câu số 1.

    “Đương” chữ cuối câu thứ nhất có chứa chữ “Điền”. “Điền” chuyển sang làm chữ đầu câu thứ hai: “Điền dã….

    Tưng tự, “Hương” có “Nhật”: “Nhật xuất…
    “Mạo” có “Nguyệt”: “Nguyệt sinh….
    v.v….
    Tới “Sương” có “Tương”: “Tương cầu tương ứng bất tương đương…”.

    Quả là “bất tương đương”. Không như những bài thơ khác phải có 56 con chữ mới đủ để cấu thành bài thơ 7 chữ x 8 câu. Ở đây, phải chọn chữ cuối để tách ra...Gò bó thế mà không hề giảm ý vị nhịp vận của thơ. Hơn nữa, các cặp 3-4, 5-6 lại đối nhau rất chỉnh:

    Nhật xuất - Nguyệt sinh; Phú mạo - Chiêu chương
    Kim trì - Ngọc bệ; Tảo khan - Tịch kiến
    …..
    Vậy mới gọi Tiên thi - Thơ tiên.

    Là thơ chữ Hán nhưng hầu hết từ trong thơ đều Hán Việt hóa nên đọc lên là cảm nhận được ý thơ suy tư cõi thế, hồn thơ thấp thoáng cảnh tiên.

    Chưa dám luận tới nhân sinh quan mà chỉ với tấm lòng cảm phục tài thơ, xin mạo muội được thể hiện tự dạng để trình bày; phỏng dịch để giới thiệu là mong được sự chỉ giáo của các bác các anh cùng bạn bè gần xa, bổ chính cho việc tái hiện và dịch thơ sao cho khỏi khiếm khuyết:

    VÔ ĐỀ
    Tương cầu tương ứng chửng tương đương
    Đồng ruộng cho nhiều thức dã hương
    Ngày, rực ao vàng, che giọt nắng
    Đêm, ngời bệ ngọc, ngắm đài gương
    Sáng, trần gian mộng cơn chìm - nổi
    Tối, coi thế quên chuyện mọn(*) sang
    Nghĩ tới bồng dinh, đời bướm gửi
    Lạ thay, lời nói quét phong sương.

    Chú thích:
    (*) Mọn: hèn. Mọn sang: hèn sang.

    (Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (84) 2007; Tr. 76 - 80)
     
    Last edited by a moderator: Jun 19, 2015

Share This Page