BÙI XUÂN ĐÍNHViện Dân tộc họcChắc chắn, không ai có thê phủ nhận rằng trong số các nguồn tài liệu "làm nền" cho việc nghiên cứu các ngành khoa học lịch sử thì tài liệu Hán Nôm là phong phú nhất, và chủ đạo nhất. Đối với ngành Dân tộc học, mà báo cáo này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu các làng xã cổ truyền của người Việt, tài liệu Hán Nôm với một khối lượng đồ sộ văn bia, thần phả, hương ước, địa bạ, sắc phong, bi ký, câu đối, hoành phi, chuông khánh v.v... như là chiếc chìa khóa đầu tiên và hữu hiệu để đi vào tìm hiểu nhiều mặt của đời sống làng xã, từ lịch sử lập làng, đến tên gọi và sự phụ thuộc của làng vào các đơn vị hành chính qua các giai đoạn lịch sử; từ thiết chế tổ chức đến các quan hệ xã hội, sở hữu ruộng đất và quan hệ giai cấp, dẳng cấp; từ việc tờ cúng đến các tập tục trong cưới xin, ma chay, khao vọng... Có thể nói, tài liệu Hán Nôm là nguồn tài liệu khá đầy đủ và đáng tin cậy để nghiên cứu lịch sử và dân tộc học các làng xã cổ truyền, nhất ilà ngày nay, khi nguồn "nhân chứng sống" về làng xã, tức các cụ già thừ 70 tuổi trở lên, am hiểu cuộc sống nông thôn xưa kia đang "cạn" dần thì tài liệu Hán Nôm chắc chắn sẽ là nguồn tài liệu đầy đủ, phong phú và tin cậy duy nhất để tìm hiểu làng xã trước Cách mạng. Các tài liệu Hán Nôm cung cấp phần lớn tư liệu cho việc nghiên cứu làng xã theo hướng "Monographie" (miêu tả tổng hợp) hay theo chuyên đề. Mỗi loại tài liệu có một vị trí nhất định trong việc nghiên cứu đó. Có thể tạm phân định như sau: Hương ước (viết trên giấy, khắc trên bia, trên ván gỗ hoặc là đồng): cung cấp nhiều tư liệu về hầu hết các mắt đời sống của làng, tập trung vào cơ cấu tổ chức các quan hệ xã hội, thờ cúng,bảo vệ an ninh... Địa bạ: tư liệu về sở hữu ruộng đất và quan hệ giai cấp. Thần phả: tư liệu về thành hoàng. Sắc phong: tư liệu về thành hoàng, tên gọi và sự phụ thuộc vào các đơn vị hành chính của làng qua các thời kỳ lịch sử. Câu đối, hoành phi: tư liệu về nhiều mặt, tùy thuộc chúng nằm ở công trình kiến trúc, văn hóa tôn giáo nào (đình, chùa, đền miếu, văn chỉ). Các loại bia: tư liệu về nhiều mặt, tùy thuộc là loại bia gì, đặt ở đâu (bia hậu, bia văn chỉ, bia thần phả...). Chuông khánh: tư liệu về nhiều mặt, tùy thuộc ở địa điểm có. v.v... Ngoài việc cung cấp tư liệu cho nghiên cứu, tài liệu Hán Nôm còn góp phần minh định cho tài liệu dân tộc học. Ví dụ ở nhiều làng, thờ nhiều vị thần trong đình (hoặc đền miếu), song số bài vị (hoặc ban thờ) nhiều khi ít hơn số thần được thờ. Trong khi thần phả, sắc phong bị mât hoặc ghi chép không đầy đủ, các cụ già không nhớ được chính xác khi văn tế là tài liệu có giá trị nhất cho việc xác định các vị thần được thờ. Như vậy, sẽ là lợi thế rất lớn nếu nhà nghiên cứu dân tộc học trực tiếp sử dụng được tài liệu Hán Nôm cho việc tìm hiểu làng xã cổ truyền của mình. Và nếu có ai đó muốn nghiên cứu làng xã trước Cách mạng mà bỏ qua nguồn tài liệu Hán Nôm thì chắc chắn, chúng ta có quyền nghi ngờ về tính đầy đủ và chính xác của các tư liệu và các luận điểm mà họ đưa ra. Tuy nhiên, trên thực tế , khi sử dụng tài liệu Hán Nôm cần phải được thẩm định bằn các tài liệu khác, trong đó có tư liệu dân tộc học để xem tính "hư" hay thức, chính xác hay không chính xác của hiện tượng mà tài liệu Hán Nôm phản ánh. Điều đó thể hiện ở một số điểm sau đây: Trước hết, người dịch tài liệu Hán Nôm muốn dịch hay và dịch chuẩn mốt văn bản không thể bỏ qua những kiến thức và tư liệu sử học, dân tộc học, vì nhiều văn bản không chỉ có những tên riêng (tên Nôm) mà còn có những khái niệm riêng về cơ cấu tổ chức, tục lệ... cần phải được xem xét kỹ trên thực tế. Có văn bản rất khó dịch, nếu chỉ căn cứ vào đó thì văn bản dịch dễ không chuẩn, không hay. Có lần, nhóm chúng tôi dịch một bản thần phả trong đó có nhiều đoạn rất khó dịch, nội dung các đoạn có nhiều chỗ mât thuẫn, khó hiều khiến chúng tôi nghi ngơ. Sau khi xuống thực địa kiểm tra lại bằng thẩm vấn dân tộc học, xem xét các địa danh, tục thờ cúng, và nhất là sau khi từ tài liệu điền dã dân tộc học, chúng tôi quay trở lại tìm trong chính sử thì những điểm bị cho là có "mâu thuẫn, khó hiểu" trong văn bản đã được làm sáng tỏ. Thứ hai, trên thực địa, đã có vài lần, chúng tôi gặp những văn bản phản ánh không đúng những hiện tượng xã hội đã diễn ra. Một ví dụ, có lần chúng tôi phát hiện trong vườn chùa của một làng nọ có nhiều mảnh bia vỡ. Sau khi ghép các mảnh vỡ đó lại với nhau, chúng tôi thấy đó là tấm bia có niên hiệu Long Đức tam niên (1734) nội dung nói về việc dân làng khai khẩn vùng đất này và dựng tại đó ngôi chùa vào thờ điẻm đó. Song, sau khi hỏi han nhiều cụ già cao tuổi, kết hợp với xem xét hiện trạng chùa và một số văn bia khác, chúng tôi thấy, tấm bia đó không phải được làm vào niên hiệu Long Đức cũng như sự việc khai khẩn đất hoang, lập trại và dựng chùa ghi trong bia không phải diễn ra vào thờ điểm trên; trái lại bia được dựng và sự việc xảy ra mới vào cuối thời Lê đầu thời Nguyễn. Sở dĩ như vậy vì khu đất này là nơi tranh chấp từ lâu giữa làng với làng bên cạnh. Hai bên cùng cử người ra lập trại để giữ đát. Một trong hai làng đông người hơn, có tiềm lực kinh tế hơn nên đã dựng chùa trước. Để khẳng định "quyền sở hữu từ rất sơm" của mình đối với vùng đất đang tranh chấp, làng đã thuê người khắc bia và dựng bia có nội dung và niên đại trên làng bằng chứng. Làng kia kêu kiện nhưng bất lức. Như vậy, ở đây niên đại cũng như hiện tượng ghi trong nội dung văn bản đều không đúng với thức tế đã diễn ra; có thể coi đó là văn bản "giả". Người sử dụng tư liệu Hán Nôm cầu "cảnh giác và chỉ có tư liệu diều tra dân tộc học mới làm rõ được tính chính xác và bản chất của hiện tượng ghi trong văn bia. Một ví dụ khác về sự cần "cảnh giác" khi sử dụng tài liệu Hán Nôm. Đó là việc sử dụng địa bạ để nghiên cứu tình hình sở hữu ruộng đất và quan hệ giai cấp trong làng xã. Trên nguyên tức, số liệu ruộng đất công tư ghi trong địa bạ phải tuyệt đối đúng về mẫu sào thước sau khi cộng lại tổng chung gữa các lại sở hữu hay sử dụng (công - tư, đêt chia cấp cho nhân đinh, để sửa lễ, dùng cho hoạt động bộ máy hành chính...), giữa các xứ đồng, giữa các chủ sở hữu v.v... Vì thế, cuối các bản địa bạ, đều có có lời cam kết: "nếu ai gian lận từ một tấc trở lên thì trời tru đất diệt và chịu tội trước pháp luật" v.v... Song trên thực tế , khi phân tích các thành phần sở hữu trong một cuốn địa bạ rồi cộng lại, chúng tôi thấy thường có sự vênh uới con số ghi ở đầu trang địa bạ, Nguyễn Đức Nghinh khi phân tích tài liệu ruộng đất của các làng xã thuộc huyện Từ Liêm cũ cho thấy, trong 43 cuốn địa bạ có tới 6 cuốn có sự sai số giữa tổng số ruộng đất theo sổ ghi và tổng số ruộng đất sau khi cộng lại trong đó 2 cuốn sai số thiết, 4 cuốn sai số thừa, có cuốn thừa (tức số ruộng thực tế nhiều hơn số ghi trong sỏ) tới 6 mẫu. Độ vện trên đây có thể do trình độ tính toán của người làm sổ; do dụng ý ẩn lậu thuế của những người đứng đầu làng xã mà khi sử dụng các tài liệu Hán Nôm trên, người nghiên cứu sử học và dân tộc học phải thận trọng. Song đó chỉ là những "lưu ý nhỏ". Trên thực tế, chúng tôi đã gặp những hiện tượng phải hết sức lưu ý khi sử dụng tài liệu Hán Nôm vì có sự trái ngược hoàn toàn giữa thực tế và nội dung mà tài liệu Hán Nôm phản ánh. Một ví dụ, tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay còn lưu bản địa bạ của các xã thuộc tổng Hà Nam (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên) ký hiệu AGa 77/4. Theo dó, tuyệt đại bộ phận ruộng đất ở đây đều là tư hữu, từng thửa ruộng trong các xứ đồng đều ghi rõ họ tên từng chủ ruộng phân canh. Song qua điều tra, chúng tôi thấy có tinh thần ngước lại. Tuyệt đại bộ phận ruộng đất 10 làng xã vùng này đều thuộc quyền sở hữu chung của cả làng do phương thức khai hoang tập thể mà có. Số đất đó, cứ 6 năm một lần, các làng chia cho các đinh nam từ 18 - 60 tuổi, sau khi đã trừ các phần đát giành cho những người đi lính, cho các hoạt động hành chính và thờ cúng của làng. Mỗi lần chia lại ruộng đó gọi là đổ trương, phần ruộng đất mà các đối tượng được cày cấy chỉ có giá trị trong thời kỳ đổ trương đó và vì dó là ruộng công của làng chia cho sử dụng tạm thời nên người sử dụng không có quyền bán, chỉ có thể giao nhuợng trong hạn 6 năm đó thôi và do vậy, đó không phải là ruộng "tư hữu" theo đúng nghĩa của từ đó như địa bạ đã ghi. Cũng vậy, trên tấm bản đồ trong địa bạ Gia Long của làng Hải Yến, thuộc tổng Hà Nam (đã nêu), ngoài những khoảng ruộng tư điền rộng lớn, còn có một khoản cũng khá rộng chia thành nhiều ô nhỏ, mỗi ô ghi rõ ruộng của từng dòng họ trong làng. Sự ghi chép đó làm cho chúng tôi nghi ngờ đó không phải là ruộng riêng của các họ. Sau khi thẩm định lại bằng thảm vấn dân tộc học, chúng tôi thấy rằng, đó là ruộng công của làng chia cho các họ. Như vậy, trong cả hai trường hợp, ruộng tư ghi trong sổ sách chỉ là ruộng công chia cho các đối tượng sử dụng tạm thời. Vậy tại sao có hiện tượng "vênh" đó? Phải chăng dây là hiện tượng rất dễ xảy ra trong thời phong kiến, chức dịch các làng xã thường khai chuyển một bộ phận lớn ruộng đất công của làng thành ruộng tư hiểu với mục đích là giảm bớt số thuế ruộng đất phải nộp (thông thường thuế ruộng công bằng ba lần thuế ruộng tư). Cũng vậy, qua kiểm tra nhiều địa bạ ở vùng Hà Đông cũ chúng tôi thấy, trong mục thổ trạch viên trì của nhiều làng, số diện tích thức sử dụng để làm "thổ cư" thường ít hơn so với số kê khai, có làng như làng Phú Gia (nay thuộc xã Phú Thượn, huyện Từ Liêm, Hà Nội), diện tích thực ở ít hơn so với kê khai tới 38 mẫu. Ở đây, tài lệu sử học và dân tộc học lý giải hộ: đó là do các làng vừa phải dành đất ở dự trữ cho các hộ tách ra ở riêng về sau, vừa muốn chuyển một phần đất canh tác sang đất ở để giảm số thuế phải nộp. Như vậy, những điều trình bày trên cho thấy, về cơ bản, các hiện tượng xã hội được ghi chép trong các tư liệu Hán Nôm phù hợp với thức tế đã xảy ra. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các hiện tượng đó không có tính chân thực rõ rệt; nói một cách khác, tư liệu Hán Nôm chỉ là cái "vỏ" để "che đập" một cách "hợp lý" và "hợp pháp" những hiện tượng mà tư liệu đó phản ánh. Giữa thực tế và nội dung phản ánh của tư liệu Hán Nôm có độ vênh theo các hướng. - Có hiện tượng nhưng khác về nội dung và bản chất. - Hoàn toàn không có hiện tượng xảy ra song cần phải lập một tư liệu Hán Nôm để làm "bằng chứng". - Có trường hợp sự việc có xảy ra, nhưng niên đại ghi trong văn bản Hán Nôm đã bị thay đổi, thậm chí niên đại phát sinh của văn bản đó cũng không đúng thực tế. Trong các trường hợp này, người sử dụng tài liệu Hán Nôm cần thận trọng và cần dùng tài liệu dân tộc học, sử dụng để thẩm định tính chính xác và bản chất của hiện tượng mà tài liệu Hán Nôm phản ánh. Thông báo Hán Nôm học 1995 (tr.67-74)https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq