Về Bài Văn Mục Lục Ở Thôn Thượng Xã Nhị Mễ

Discussion in 'Thông Báo Hán Nôm Học' started by admin, Sep 8, 2013.

  1. admin

    admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên

    VỀ BÀI VĂN MỤC LỤC Ở THÔN THƯỢNG XÃ NHỊ MỄ
    NGUYỄN THỊ TRANG​
    Viện Nghiên cứu Hán Nôm
    Xã Nhị Mễ xưa thuộc huyện Đông An, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Xã gồm hai thôn Thượng và Hạ nằm cận kề sông Hồng, đất đai phì nhiêu, dân cư trù mật. Hàng năm xã tổ chức lễ hội vào tháng giêng. Tương truyền lễ hội tổ chức rất lớn, ngoài việc rước thần tế lễ, dân xã còn tục tổ chức chọi gà, đánh vật. Dân cư các địa phương nô nức kéo đến dự lễ hội ở xã Nhị Mễ ngoài việc có trò chọi gà rất kỳ thú, còn là việc bản xã có bài văn mục lục tế thần viết bằng chữ Nôm rất có ý nghĩa, lời lẽ chân thực thấm sâu vào lòng người. Xã có hai bài mục lục, thay nhau đọc trong các hội tế. Hiện nay bài văn mục lục này được chép trong sách Hưng Yên tỉnh, Đông Yên huyện các xã thần tích, ký hiệu AE a3/24. Sách có ghi rõ bài văn này được chép lại vào năm Vĩnh Hựu thứ 1 (1736). Đây là tư liệu rất quý, có nhắc đến tên nước Việt Nam, do vậy chúng tôi phiên âm chú thích và giới thiệu cả hai bài văn mục lục này để Hội nghị thông báo Hán Nôm học năm 2005 tham khảo.
    Toàn văn như sau:
    Bản đình tàng quy xướng ca kỳ phúc mục lục văn
    Bài 1
    Mừng nay:
    Đất mở cõi xuân;
    Trời giơ đuốc ngọc.
    Vọi vọi âu vàng vững đặt, trên chín lần áo rủ hương nghê;
    Hiu hiu gió huệ thổi đưa, dưới trăm họ đầm yên tiếng nhạn(1)
    Chốn chốn nhà no người đủ;
    Đâu đâu giếng trổ ruộng cày.
    Vang lừng trống vỗ đời Nghiêu, ca thuận tắc dắng ngày xuân náo nức;
    Lồng lộng then song cửa Lý, khúc thái bình khong(2) đêm nguyệt phao tung(3)
    Hồi thuần đem lại thói xưa;
    Kỳ phúc mở theo lề cũ.
    Đình ta nay:
    Quy mô rạng trước;
    Phong cảnh tột vời.
    Duềnh Kim Ngưu dải bạc lập lòe, một dải bóng in vầng thỏ(4)
    Ao Ngọc Chẩm gương vàng chấp chới, bốn mùa đáy giãi vẻ ô(5)
    Phong quang mỗi vẻ mỗi ưa;
    Thú mùi một chiều một lạ.
    Ngạt ngào đình thơ đêm rượu, xã Lạc(6) xui thưởng hội đòi phen;
    Dầm dà màn liễu tán hòe, vườn Tống(7) nổi thi ca mấy chập.
    Trong đất tốt đã sẵn đồ thanh tú;
    Cấu khí thiêng đành trỗi đấng anh hào.
    Văn từ nhả gấm phun châu, cửa vũ ba tầng nhảy sóng đào, tài giúp nước bày vai Lã Phạm(8).
    Võ thao lược khua thần truy quỉ, ải quan mấy phen giơ việt ngọc, công dẹp tàn theo dấu Quách Tào(9).
    Văn võ đã có đấng kinh luân;
    Nông thương lại theo người trí giá.
    Đủng đỉnh cày mây cuốc nguyệt, thú Nội Sằn(10) phiền thương tệ mấy lần;
    Đong đưa buôn Sở bán Tần, ngôi khanh tướng đổi Hán quan thiên thạch(11).
    Nhờ đất tót sẵn nền phú quý;
    Gặp vận lành mở tiệc âu ca.
    Bóng tinh kỳ tía tía xanh xanh, lộng ánh trên mây năm vẻ dãi;
    Sáo tơ trúc khoan nhặt nhặt, lần nghe dưới nguyệt mấy thơ bày.
    Tiệc thừa lưa(12) bàn soạn sẵn sàng;
    Đỉnh đổng trật cân đai(13) sặc sỡ.
    Trên một đoàn kỳ hi lão mạo(14), chữ tác bằng phô tiệc ngọc vui vầy;
    Dưới bốn giáp túc mục nhượng nhân(15), câu dĩ hòa nức lòng xuân hớn hở.
    Đã nghiêm đám tàng quy;
    Lại hẹn bài ca vũ.
    Đào nương thì mặc thi khổ truyện, dở dang mọi vẻ dễ ưa người;
    Quản sách thì ra sử vào kinh, đặt bỏ mấy niềm cho hợp lễ.
    Ca xướng chẳng được lời húy phạm;
    Sau trước cho phải phép chúc mừng.
    Chúc Hoàng thượng vẹn chữ tam đa(16), phúc thượng thư gồm đủ;
    Mừng Thánh chúa gồm câu vạn dị(17), thi Thiên bảo(18) kính dâng.
    Lại một bài nữa:
    Mừng nay:
    Thánh trị hoằng khai(19)
    Thể kỳ doãn nhạ(20)
    Nước Việt Nam tộ lại hồi xuân;
    Tên thánh chúa ngôi cao trạch hạ.
    Rỡ rỡ nửa nghìn vận gặp bốn phương đều tưởng vọng giáo thanh;
    Hây hây một trợ thời tám cõi khắp gội nhuần đức hóa.
    Tôi Quỳ Long hớn hở trong triều;
    Thời Nghiêu Thuấn nhởn nhơ ngoài dã.
    Lòng ta nay:
    Tiếng dậy Đông An(21);
    Danh lừng thiên hạ.
    An bài xưng Khoái quận(22) thuần dân;
    Trung chính tây nam phương thượng tọa.
    Chu tước huyền vũ chiếu ứng bày đôi mặt trước sau;
    Bạch hổ thanh long đăng đối liệt hai bên tả hữu.
    Nước lẻo trong quanh khắp tứ bề;
    Non xa đỉnh chầu vào đôi ngả.
    Cảnh thanh quang đất vượng khí thiêng;
    Dân trù mật(23) mầu thanh lạ.
    Cửa nhà xích hợp dầm da xây cội đức nền nhân;
    Hoa cỏ xanh tươi sẵn thưa suối cành ngọc lá.
    Địa linh nhân kiệt, trai anh hùng những đấng khang bao;
    Thiên bảo vật hoa, gái hiền hậu sinh người quí giá.
    Bốn dân đều sinh nghiệp các cần(24)
    Mọi thói chúc trần ai chẳng bá(25)
    Kẻ cầy mây cuốc nguyệt việc nam nhi khuya sớm siêng năng;
    Người dệt gấm thêu hoa mỹ nữ công hạnh ngày gióng giả.
    Hưng nhân hưng nhượng gió thuần phong có trước khả so;
    Viết kiệm viết cần dân hậu tục Hán xưa chẳng quá lễ.
    Sự thần dốc một kính cung;
    Chúc thánh cảm lòng khi trá.
    Tân đình dựng lập rỡ ràng thêm ngọc điểm châu trang;
    Long kiệu thửa bày sặc sỡ vẻ rồng bay phượng múa.
    Đạo giao lân chỉ tín, đôi thôn cộng nghĩa dốc ái ân;
    Chữ hành lạc gặp thời, xuân diên mở tiệc bày khánh hạ.
    Vui mừng điều trên dưới trẻ già.
    Náo nức dậy gái trai nhỏ cả.
    Tiệc tàng quy bày đặt xa đại vương, chế độ uy nghi;
    Lễ ngọc yến phô vang ngôi hương lão, tôn ty hòa nhã.
    Tục tục huyền huyền tiếng tơ tiếng trúc đào nương kia cứ mực khoan hòa;
    Ca ca chúc chúc cung bắc cung nam quản giáp nọ chớ điều hỷ hả.
    Đương cai giữ một niềm cung phụng thời đạo;
    … các giáp thì mọi việc chỉnh tề vui chơi thong thả.
    Kẻ bàng quan miễn chớ huyên hoa(26);
    Người quý xứ mựa(27) hề suy mửa.
    Mừng thấy:
    Hội đồng mây sảy gặp thụy khí thơm đua;
    Duyên cá nước rành ưa thiên hương khói tỏa.
    Lễ sự thần cẩn tắc tôn thần ưng tại đình trung;
    Việc kỳ phúc nghiêm trang mừng cảnh phúc thu về đồng xã.
    Dân khang vật thịnh, nhà nhà đều lộc hưởng thái bình;
    Thời hòa niên phong, năm năm lại phỉ lòng vui thỏa.
    Hữu bảng thông tri Vĩnh Hựu nguyên niên phụng tả(28)
    Chú thích:
    1. Tiếng nhạn: tiếng chim kêu, ý nói chiến tranh.
    2. Khong (từ cổ): khen ngợi
    3. Phao tung (từ cổ): vang lừng, rực rỡ.
    4. Vầng thỏ: mặt trăng.
    5. Vẻ ô: bóng mặt trời.
    6. Xã Lạc: tức Lạc xã, tên một tổ chức thi ca đời xưa, họp nhau mừng được mùa.
    7. Vườn Tống: vườn xuân của nhà Tống, chỉ cảnh tượng đời thái bình.
    8. Lã Phạm: tức Lã Vọng hiền tài đời Chu và Phạm Lãi tướng tài của nước Việt thời Xuân Thu.
    9. Quách Tào: Quách tức Quách Tào người đời Đường, từng có công dẹp loạn An Lộc Sơn. Còn Tào chưa rõ là ai.
    10. Nội Sằn: tức Sằn Dã, nơi Y Doãn sống trước khi giúp Thành Thang.
    11. Hán quan thiên thạch: quan chức đời nhà Hán được hưởng lương hàng ngàn thạch… ở đây nói việc Trương Lương sau khi giúp Lưu Bang lập nghiệp bèn bỏ đi ở ẩn, có sách nói ông đi buôn…
    12. Thừa lưa (từ cổ): dư dật, thoải mái.
    13. Cân đa: mũ áo. Ý nói các quan viên trong làng mặc áo mũ xênh xang đến tế lễ.
    14. Kỳ hi lão mạo: các cụ già cả tám chín mươi.
    15. Túc mục nhượng nhân: nhân ái hòa mục.
    16. Tam đa: ba thứ có được nhiều là đa thọ (sống lâu), đa lộc (nhiều lộc) và đa tử (nhiều con cháu).
    17. Vạn dị: muôn đời.
    18. Thiên bảo: tên một bài thơ trong Kinh Thi, nội dung ca ngợi ân đức của nha vua.
    19. Thánh trị hoằng khai: triều đình mở mang trị nước.
    20. Thổ kỳ doãn nhạ: ân đức thấm sâu khắp cả.
    21. Đông An: tên huyện cũ, nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
    22. Khoái quận: tức huyện Khoái Châu cũ.
    23. Trù mật: đông đúc.
    24. Sinh nghiệp các cần: ai nấy siêng cần công việc.
    25. Trần ai chẳng bá: không dính tý bụi trần.
    26. Huyên hoa: ầm ĩ, nhốn nháo.
    27. Mựa (tiếng cổ): chớ đừng.
    28. Dòng lạc khoản ở dưới có nghĩa là: bảng văn viết ở trên báo cho mọi người được biết. Sao lại vào năm Vĩnh Hựu 1 (1736)./.
    Thông báo Hán Nôm học 2005 (tr.655-661)
    https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq
     

Share This Page