VỀ BẢN VĂN MỤC LỤC, THÔN HƯƠNG MẶC XÃ HƯƠNG MẶC HUYỆN TỪ SƠN TỈNH BẮC NINH HOÀNG THỊ TỐ LOANViện nghiên cứu Hán Nôm Hương Mặc (còn có tên là làng Me) hiện nay là tên làng mà cũng là tên xã, thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Phía bắc làng giáp xã Văn Môn, Yên Phong; phía tây giáp xã Vân Hà (Đông Anh - Hà Nội); phía nam giáp xã Phù Khê (cùng huyện); phía đông giáp thôn Mai Động (cùng xã) và giáp xã Tam Sơn (cùng huyện). Hương Mặc trước đây nguyên còn gọi là Cổ Mặc phường. Đến đời Trần thì đổi tên là Trung Mi phường: gồm 12 thôn là: Ngô Tiền, Ngô Trực, Tây Ứng, Bảo Tháp, Đông Tiến, Thọ Triền, Phú Hậu, Thôn Vân, Thôn Nhiễm, Thôn Nùi, Thôn Nga, Thôn Tập. Đời Lê lúc đầu lại đổi Trung Mi phường thành Ông Mặc xã, sau lại chia thành 2 (Ông Mặc gồm) các thôn Ngô Tiền, Ngô Trực, Tây Ứng, Bảo Tháp, Đông Tiến Thọ Triền, còn các thôn khác gọi là làng Hoa Thiều. Đến triều Nguyễn đời vua Minh Mệnh thì Ông Mặc đổi Hương Mặc, Hoa Thiền đổi là Kim Thiều (tên Nôm là làng Mức) và lúc ấy Hương Mặc thuộc tổng Nghĩa Lập, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn trấn Kinh Bắc - một trong tứ trấn phên dậu của kinh thành Thăng Long. - Hương Mặc là nơi có nền giáo dục phát triển từ rất sớm, có truyền thống hiếu học tiêu biểu, đã sản sinh ra nhiều danh nhân khoa bảng nổi tiếng của đất nước. Theo 2 cuốn Kinh Bắc xứ cao khoa hiền hoạn do Tú tài Nguyễn Nam Thanh soạn năm Thành Thái 5 (1893) và cuốn Cổ Mặc danh công truyện ký do Độn Phu Nguyễn Tử Trinh soạn năm Chính Hòa 2 (1681) đã ghi chép thì xã Hương Mặc có 23 người đỗ đại khoa (đứng đầu huyện Đông Ngàn nay là huyện Từ Sơn - Bắc Ninh). Nơi đây đặc biệt có nhiều vị rất tài hoa lỗi lạc và từng nắm giữ nhiều chức quan trọng trong triều đình thời phong kiến trước kia. Ví như ông Nguyễn Giản Thanh, thi đậu Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1508), hai lần đi sứ sang Trung Quốc, tương truyền do có tài ứng đối nên được vua nhà Minh phong là Trạng nguyên, ông Đàm Thận Huy đỗ Đệ tam giáp đồng Ttiến sĩ khoa Canh Tuất (1490) là hội viên hội Tao Đàn và được vua Lê Thánh Tông từng ngự bút khen rằng: Thiên hạ đệ nhất danh thi nhân (là người giỏi thơ nhất trong thiên hạ). Ông còn là thầy dậy cho nhiều vị đỗ đại khoa trong vùng (đặc biệt khoa thi năm Mậu Thìn (1508) ông đã đào tạo được 3 vị đỗ đại khoa, chiếm đủ tam khôi đó là ông Nguyễn Giản Thanh đỗ Trạng nguyên, ông Hứa Tam Tỉnh đỗ Bảng nhãn và ông Nguyễn Hữu Nghiêm đỗ Thám hoa. Còn như ông Đàm Công Hiệu (là cháu 6 đời của cụ Đàm Thận Huy) nổi tiếng và là thầy dạy học của An Vương Trịnh Cương khi còn ở nơi tiềm để(1)... Truyền thống văn hiến mà nổi bật là khoa cử và con đường làm quan của người Hương Mặc thật hiếm thấy, nó thật xứng đáng với lời ca ngợi của người xưa “đất mực thơm có tiếng của vùng”. - Người dân Hương Mặc rất cần cù, và luôn chắt chiu xây dựng cuộc sống của mình ngày thêm phong phú sinh động hơn. Họ đã để lại cho đời sau những công trình văn hóa như đình làng Hương Mặc có từ thời Lê, xây dựng lại vào thời Nguyễn và đến tận bây giờ nó trở thành một công trình kiến trúc khang trang bề thế, rồi một số nhà thờ của các bậc đại khoa đã được cấp bằng di tích lịch sử văn hóa như: đền thờ cụ Tiết nghĩa Đàm Thận Huy, đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh, đền thờ Quốc sư Đàm Công Hiệu, đền thờ Quận công Đàm Đình Cư, đền thờ cụ Hoàng giáp Đỗ Đại Uyên... và một số tư liệu Hán Nôm như: thần tích, hương ước, sắc phong, tục lệ, ... các bài văn tế, văn mục lục... Qua những phong tục tập quán lễ hội ở đây cho thấy sự đoàn kết của dân làng, đồng thời cũng là truyền thống sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân địa phương từ trước tới nay trên vùng đất cổ này. Để bạn đọc hiểu hơn về làng quê Hương Mặc có truyền thống hiếu học và khoa bảng tôi xin giới thiệu 2 bài văn thường được đọc hàng năm vào các dịp làng có việc tế lễ, chép trong cuốn Cổ Mặc danh công truyện kí hiện đang lưu giữ tại đền Tiết nghĩa (tức đền thờ Tiết nghĩa Đàm Thận Huy) thuộc thôn Hương Mặc, xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Bài thứ 1: Thường nghe: Cuộc vui quý nhất kịp thời Hiểu được lễ mới là mỹ tục Bao trùm lên chữ lễ Biết vận dụng hài hòa Khi vui phải làm sáng chữ Đức Thế mới có lúc vui trước tiên phải dùng lễ. Còn gặp thăng trầm phải biết tiết chế khiêm nhường. Có lễ rồi không thể không hoan lạc. Hòa cuộc vui tiếng sáo đàn réo rắt Nối tiếp nhau trong tiếng cách tiếng bầu Đầu tháng giêng hòa hợp cùng nhau Xuân trở lại muôn nhà vui vẻ Đêm Nguyên tiêu tưng bừng khắp ngả Giăng đèn kết hoa, hoa bạc long lanh Chín tầng mây mây sáng lấp lánh rõ rành Nghe thoang thoảng làn gió thơm hoà quyện Phẩm vật bừng lên hình hình sắc sắc. Ngỡ muôn ngàn hoa tuyết trắng phau phau Đời khang thái mở ra vui biết mấy. Khi lệnh vua đạo trời bật dậy Khắp muôn dân đến các danh thần Đều cùng nhau một dạ một lòng Phò xã tắc an như bàn thạch Đương mùa xuân tốt tươi sinh muôn vật. Cơ tạo hóa khép mở ra vào Thừa mệnh trời lựa chọn đúng sao Hun đúc nhân tài tiến thăng thế đạo Quy tụ dân sinh cùng nhau kiến tạo Đem mãi niềm tin tất cả dốc lòng. Nhà nhà vui cảnh phú quý hưng long Để thưởng thức tiếng thơ cùng tiếng sáo Tụ hội muôn phương người người lạc đạo Xã ta xưa thuộc khu vực Loa thành Với tên xã danh xưng Ông Mặc Mảnh đất chạy dài men theo đường phẳng Thắng hướng xuyên theo dáng núi cao cao Ngô Trực thôn mảnh đất đẹp sao Toàn tựa vào rồng thiêng uốn khúc Ngô Tiền kiểu thức thế mở cờ Làn gió nhẹ lay động bút thơ Bạch Hổ(2) chầu về hướng Bích La(3) Bảo Tháp Đông Tiến như chuỗi ngọc xuyên qua Kìa rồng xanh vờn thôn Nhiễm xã Hoa(4) Ôm ấp cả thôn Vân xã Thiết(5) Tây Ứng thôn nước sáng đường tích ngọc Liên Phù Kê cùng Mai Động như rắn đỏ Hương Xuân Vũ - Bình Lâm hai xã Sẽ đỏ trên cây nhảy lá vờn hoa Càn Hợi phương(6) núi cao mượt như nhung Thọ Triền thôn dãy Thất Diệu trập trùng Hòa dòng nước hướng đông trong mát Đông Xuất - Tam Sơn tòng hậu thác Truyền rộng mở cửa Khổng sân Trình Vượng khí kết liên chung đúc điềm lành Chính khoa mục lại kề khoa mục Khoa danh điệp trùng bảng vàng thơm nức Tổ tôn kế thừa hiển quý trước sau. Trước vương hầu sau lại kế tiếp vương hầu Đảm trọng trách khuông phù(7) vương thất Nhờ đức hạnh được chọn đường quan tước Lấy văn chương để nhận chức vua ban Vùng địa linh nhân kiệt vẻ vang Ghi đậm nét trời Nam hiển hách Phong tục đẹp ngời lên hương sắc Vượt khắp miền Kinh Bắc gần xa. Kính phục mến yêu mảnh đất hào hoa Tháng đầu xuân khí tiết hài hoà Giữa phong cảnh đậm đà lễ hội Nhạc tấu lên lòng người phơi phới Điệu Dương Xuân vời vợi ngân nga Đào nương hoà trong khúc hát lời ca Tiếng đàn sáo toả lan bốn hướng Dàn bát âm nhã nhặn êm ru Sáu sở xướng ca trầm bổng khoan từ Não bạt thanh la tưởng như giao hưởng Ngâm nga mãi trong bầu khí tượng Yến tiệc xuân thừa hưởng vui sao Cùng Lan Đình(8) hợp yến chuốc rượu đào Rồi chúc nhau tốt lành thọ khảo Cùng đồng hưởng rượu mừng thánh đạo Ơn thánh thần phù hộ hương dân Sống ở đời phải biết tu thân Và làm sáng mãi chữ nhân chữ đức Sống lương thiện nghĩa tình khuôn mực Coi trọng tu thân thiện đức làm thầy Đòi hỏi bản thân mẫu mực tháng ngày Sống có nghĩa tình thân phân biệt Có niềm tin thứ bậc rõ ràng Cùng giữ gìn giúp đỡ cưu mang, Cùng khuyên bảo tương giao liên kết Cùng noi gương xã Đồng Lai; Hương Ước Nên nghĩa anh em, sao được kịp người Từ nhà giúp nước chọn nhân tài Làm cho tất trời thêm tươi đẹp Đã làm người ai nấy đều phải biết Của cải kia phi nghĩa chẳng thèm Giàu chẳng kiêu, quý chớ khinh nhờn Cùng thôn xóm yêu thương giao kết Khuyên bảo nhau không học nghề cờ bạc Cũng chẳng ham kiện tụng tranh gian Việc không đâu vô ích chẳng làm Sống chân thật không gian giảo dối trá Sống kỉ cương chớ để mình buông thả Chớ rượu chè cuội phá say sưa Sống thủy chung đậm đà trong tình nghĩa Nhờ đức thánh tháng năm phù trợ Khắp hương dân vật phụ nhân khang Đúng với câu: Thiếu quý - Lão toàn Sống thư thái ở đài xuân cõi thọ Cuộc đời ấy thật là vui vẻ Cầu sao cho được - Hỡi thế nhân Ân trạch thánh hiền rủ xuống muôn dân Mong cho: Sĩ: Suốt năm tháng sôi kinh nấu sử Mang hùng văn áp đảo tam thiên(9) Thỏa ước mong chiếm được bảng vàng Đem tài đức làm sang đất nước Công: ra công rèn luyện sớm hôm Dám khoe tài cùng bè bạn gần xa Thương: buôn bán đầy nhà chung đỉnh Giàu sang như Vương Sủng - Thạch Sùng Vinh hạnh sao khi thánh thượng ân ban Ngời ngợi chữ vàng thượng thủ ngũ phúc Hộ quốc bảo dân sáng ngời tâm đức Nay thông tri dân thức dân tường. Bài thứ 2 Mừng đất nước gặp thời thịnh trị Trên đức vua sáng ý minh tâm. Người đà phát chính thi nhân Dưới vua các bậc hiền thần giỏi giang. Mang tài đức kinh bang tế thế Chốn triều trung điển chế kỷ cương Đạo tắc ở chốn thôn hương Chúng dân quét sạch mở chương vĩnh hằng. Mùa tiếp mùa phong đăng hoa cốc Khắp nhà nông lương thực đủ đầy. Tưởng như sống lại những ngày Thuấn Nghiêu. Muôn dân đã thương yêu đùm bọc Trên quê hương Ông Mặc hào hoa. Vượt lên thế đất huyện nhà Danh truyền Kinh Bắc thơm xa khắp miền. Bạch Hổ chầu núi non chót vót Thất Diệu Sơn bao lót vòng quanh. Dập dìu nước cuộn rồng xanh Tả biên thiên đức quanh quanh Nhị Hà Vùng đất thiêng tài hoa hội tụ Đẹp biết bao câu chữ văn chương. Thuần phong mỹ tục đôi đường Miền quê Ông Mặc cát tường hưng thịnh. Văn thăng tiến quang vinh tài giỏi Dự tuyển quan mười tám sĩ phu. Võ trí dũng mưu lược cừ Bốn bẩy danh tộc giúp vua giữ nước. Sĩ tài dụng văn chương kinh sách Những mong sao hiển hách cao khoa. Nông thì cấy hái tăng gia Chăn trâu làm ruộng mặn mà tháng năm. Của thu về trăm vạn kim ngân. Công thời một dạ quyết tâm Chạm rồng trổ phượng muôn phần tinh vi Lộc tam phẩm gập thì đón nhận Cả thứ dân phấn chấn biết bao! Ngày xuân vượng khí dồi dào Tuân theo tục cũ đề cao hội làng. Nơi diện thượng rỡ ràng xuân sắc Trên đài sen tượng phật huy hoàng. Đình làng xán lạn nghiêm trang Phẩm nghi bầy đặt thênh thang một toà. Văn ngời ngợi nở hoa cát khánh Lễ phụng thờ đức thánh tôn nghiêm. Hội xuân nghênh tiếp giao phường Tiếng đàn tiếng sáo từng chương hài hoà. Đào lương cất lời ca êm ái Mừng thôn hương khang thái ngày xuân. Lời văn trong trẻo sáng ngần Những điều ước thúc rõ rành biết bao. Khắp già trẻ cùng vào dự yến. Thưởng thức vui không tiếng ồn ào. Nam nam nữ nữ vui sao! Ngồi trong bàn tiệc dồi dào sức xuân Chốn đình trung muôn phần chỉnh túc. Đều thực thi pháp thực trang nghiêm Người trong bốn giáp một niềm Tuân theo ước sự giữ gìn điển chương. Cả già, trẻ thôn hương hoà lạc Vui đón xuân dào dạt nghĩa tình. Phụng thờ đức thánh anh ninh Trung thành một dạ đinh ninh một lời. Chúc thánh thượng sáng ngời đức cả Thọ vô cương nhật dạ âm phù. Hương dân thịnh đạt ngàn thu Khang ninh phú quý tho như hải hà. Phúc lộc nẩy nở như hoa Đình kiêm ngữ phúc nhà nhà hân hoan. Nội dung cả hai bài đều ca ngợi vùng đất Ông Mặc hào hoa, có nhiều nhân tài hội tụ, tiếng thơm vang xa khắp miền. Quan văn thì có 18 người quang vinh tài giỏi, quan võ trí dũng cao mưu phò vua giúp nước thì cũng được 47 vị, người làm ruộng thì hăng say cày cấy, kẻ buôn bán thì chăm chỉ tảo tần, những người thợ thì chạm rồng trổ phượng muôn phần tinh vi. Nhân dân trong làng yêu thương đùm bọc lẫn nhau, luôn biết cùng nhau hướng về tổ tiên, ngày xuân dân trong làng lễ tựu đông đủ làm lễ phụng thờ đức thánh tôn nghiêm, khắp thôn tiếng đàn tiếng sáo từng chương hài hoà, mọi người cùng vui dự yến tiệc và chúc nhau tốt lành thọ khang mong thánh thần phụ trợ cho hương dân. Chú thích: (1) Nơi tiềm để: là nơi vua chúa ở lúc chưa lên ngôi. (2) Bạch Hổ: núi Bạch Hổ. (3) Bích La: tên xã tiếp giáp với thôn Bảo Tháp. (4) Xã Hoa: tức xã Hoa Thiều. (5) Thôn Vân xã Thiết: tức thôn Vân Điềm xã Thiết Bình, giáp xã Hoa Thiều. (6) Càn Hợi phương: hướng Tây Bắc. (7) Khuông phù: giúp đỡ, phò giúp. (8) Lan Đình: là nơi các sĩ tử, các bậc tao nhân mặc khách đến uống rượu, làm thơ, viết thư pháp. (9) Tam thiên: ý chỉ 3000 sĩ tử của cả nước./. Thông báo Hán Nôm học 2006 (tr.468-478)https://www.mediafire.com/?hntqghhkmizgiq